THI PHÁP BÀI THƠ “TÔI NGHE” CỦA
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Lời Nói Đầu:
Đọc thơ, thưởng thức thơ, bình thơ
là tự mình tìm tòi và khám phá phần trả lời của hai câu hỏi:
1/ What?
Bài thơ viết về cái gì? Ngôn ngữ
văn chương gọi là Tứ Thơ; nếu có ẩn dụ toàn bài thì người đọc, người bình phải
từ Tứ suy ra Ý.
2/ How?
Viết thế nào? Đó chính là Phương
Cách thi sĩ diễn đạt, chuyển tải Tứ Thơ đến người đọc.
Ngôn ngữ văn chương gọi là Kỹ Thuật
Thơ; nếu dùng ngôn ngữ chuyên môn hơn một tý thì gọi là Thi Pháp, còn ngôn ngữ
đời thường thì có thể gọi là Tài Thơ cuả thi sĩ.
Có một vài điều tế nhị nên trong
bài viết này tôi chỉ chú trọng đến câu hỏi thứ hai, nghĩa là sẽ nhận xét và
phân tích phần Thi Pháp của bài thơ.
Xin giới thiệu đến độc giả thi phẩm
TÔI NGHE của Đặng Xuân Xuyến.
TÔI NGHE
Lời Dẫn:
Nhân ông Phạm
Trọng Đạt, Cục trưởng Cục Chống Tham Nhũng nói với phóng viên báo Dân Trí: cần
làm rõ thông tin về những khối tài sản rất lớn của một nữ trưởng phòng thuộc Sở
Xây Dựng Thanh Hóa. Và những thông tin trên mạng về những “nghi vấn tiêu cực” ở
một số bộ phận quan chức. Đặng Xuân Xuyến cảm tác đôi vần:
Tôi nghe …
quan đầu tỉnh xứ Thanh (1)
cung phụng bồ nhí siêu xe bạc tỉ
biệt thự rải khắp nơi
chiếm đất vàng phố thị
còn ủ mưu đầu cơ chính trị
bợ gót đưa “nàng” vào cơ cấu
quan thật giầu!
quan tính kế thật sâu!
quan lấy tiền từ đâu?
từ bòn rút dân đen
hay tận vét bằng trò buôn quan bán chức?
.
Tôi nghe...
quan đầu tỉnh xứ Bái khử nhau (2)
hệt như phim hình sự
vì ân oán tư thù?
vì ăn chia không đủ?
vì lật lọng bảo kê ghế ngồi cơ cấu?
tháng Tám mùa thu
tám phát giang hồ
khô khốc nổ
niềm tin gục đổ
náo loạn lòng người
choáng váng tình đồng chí.
.
Tôi nghe...
quan đầu tỉnh Hà Giang (3)
thiết lập vương triều nhà Triệu
này thì vợ
này em trai
này thêm chồng em gái
mật ngọt ruồi bu
khoanh vùng chia nhau cát cứ.
.
Tôi nghe...
đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi (4)
ba năm tới trường bằng mượn áo rách của anh
bà Lò Thị Phanh (5)
bệnh viện trả về
không tiền thuê xe
xác cuốn chiếu
gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số.
.
những mảnh đời khốn khó
những anh Vươn (6) sắp trơ lì hãi sợ
có câu tức nước ắt vỡ bờ
khi niềm tin rạn vỡ.
CHÚ THÍCH:
(1) Bí thư tỉnh Thanh Hóa: Trịnh Văn Chiến
(2) Đỗ Cường Minh (nghi can và cũng là nạn nhân) bắn chết Phan Duy
Cường (Bí thư tỉnh Yên Bái) và Ngô Ngọc Tuấn (Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái)
(3) Bí thư tỉnh Hà Giang: Triệu Tài Vinh.
(4) Em Ksor Sôn ở xã Ia Der, huyện Ia Grai, Gia Lai.
(5) Chị Lò Thị Phanh ở xã Mường Sại, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn
La.
(6) Anh Đoàn Văn Vươn ở Vinh Quang, Tiên Lãng, Hải Phòng.
*.
Hà Nội, chiều 21
tháng 09-2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
NHẬN XÉT THI PHÁP
1/ Nhất Khí Liền Mạch hay Phân Mảnh Đứt Đoạn?
Đây là thể thơ nhất khí liền mạch, lấy cảm xúc làm chủ đạo. Bài
thơ có khoảng trên dưới 40 câu, 229 chữ đi thẳng một lèo từ câu đẩu đến câu
cuối. Có 4 chỗ tạm ngừng để chuyển đoạn, nhưng không phải do luật tắc bó buộc
của thể thơ mà ngừng nghỉ để tiếp nhiên liệu, nhận thêm thông tin mới. Tứ thơ
vẫn có dòng chảy tương đối rõ ràng.
LỜI BÀN:
Hai Cách Làm Thơ Và Hai Hướng Đi Của Thơ
1/ Phe Kiếm Tông: Chú trọng “chiêu thức”.
Thi sĩ thường làm thơ ngắn (4 câu), thơ Đường Luật hoặc chọn thể
thơ Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn - nhiều đọan, mỗi đoạn 4 câu – (Thơ Haiku
cũng thuộc loại này).
Vì không có dòng chảy, cảm xúc hố nào nằm im ở hố đó không lưu
chuyển nên không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn
thơ.
Để chinh phục độc giả thi sĩ chỉ trông nhờ vào độ sâu sắc của ý
tứ, câu chữ, ngôn ngữ hình tượng, các thủ pháp kỹ thuật, các biện pháp tu từ,
nói chung là cái đẹp văn chương.
2/ Phe Khí Tông: Chú trọng nội công, cảm xúc.
Thi sĩ cũng sử dụng chiêu thức nhưng chú trọng nội công.
Nói theo ngôn ngữ văn chương thì đây là loại thơ chú trọng Cảm
Xúc – chinh phục độc giả không phải bằng thứ cảm xúc bình thường nằm trong ý
nghĩa của câu chữ, thế trận của bài tthơ mà là “luồng hơi nóng nằm giữa hai
hàng kẻ” – nghĩa là nằm ngoài câu chữ.
Đó là thứ cảm xúc cao cấp, cho độc giả cái cảm giác đã nhất, sướng
nhất - người ta gọi là hồn thơ. Hồn thơ chỉ có thể xuất hiện khi lý trí vắng
mặt, chữ Xạo trong lời thơ, ý thơ trốn mất. Thi sĩ và độc giả - qua bài thơ –
trò chuyện với nhau bằng Tiếng Người Chân Thật.
Như vậy, nếu có tầm nhìn xa hơn, thi sĩ sẽ chọn hướng đi của phe
Khí Tông. Nếu thi pháp thích hợp, tâm thế lại đang trong cơn cao hứng đến mức
nổi điên, ngài sẽ có cơ hội cùng bài thơ của mình bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Mà dù chưa thể đến đích, bài thơ viết theo hướng này rất dễ tạo
được cảm xúc tầng 3, được đánh giá cao hơn những bài thơ làng nhàng của phe
Kiếm Tông.
Chọn hướng đi này Đặng Xuân Xuyến đã có tầm nhìn xa hơn cho bài
thơ TÔI NGHE của mình. Với độ dài tạm đủ để có thể có “sóng sau dồn sóng
trước”, nếu có thêm vài điều kiện khác nữa, bài thơ có vẻ như đã nhắm đúng
hướng Bến Bờ Thi Ca thẳng tiến.
2/ Ngôn Ngữ Hình Tượng:
Ngôn ngữ hình tượng của Tôi Nghe tương đối dễ hiểu, dễ bắt. Tuy
nhiên, có một mô gò cản đường đáng chú ý. Đó là 3 câu:
Tháng Tám mùa thu
tám phát giang hồ
khô khốc nổ
trong đó câu “tám phát giang hồ”, đối với những độc giả chưa am
tường sự việc ở “xứ Bái”, không những không “dễ tiêu” mà lại còn “khó bắt” nữa.
Chính người viết bài này đọc đi đọc lại cả bài thơ lẫn phần “Lời Dẫn” và “Chú
Thích” cũng vẫn ù ù cạc cạc.
Nhắn tin hỏi tác giả thì mới biết “tám phát” là tám phát súng đã
bắn chết 2 nhân vật lãnh đạo cao nhất của tỉnh Yên Bái.
LỜI BÀN:
Thơ lối Kiếm Tông (chú trọng chiêu thức, độ sâu sắc của câu chữ,
hình tượng, ý tứ, nét đẹp văn chương) thì càng khó tiêu độc giả càng khoái
(miễn đừng “bí hiểm” đến mức chính tác giả cũng ú ớ, không giải thích được).
Đọc thơ Kiếm Tông là phải “ngẫm”. Ngẫm càng lâu thì khi khám phá
được, hiểu được ẩn ý, nghĩa bóng của câu chữ hay đoạn thơ thì càng sướng. Những
lúc trà dư tửu hậu đem những chỗ ấy ra mà “tán” mà bình, mà “khoe” thì “quá
đã”.
Thơ theo lối Khí Tông (chú trọng cảm xúc) ngôn ngữ hình tượng cần
phải “dễ tiêu” – tôi không dùng nhóm chữ “dễ hiểu” vì “hiểu” phải mời gọi lý
trí. Có lý trí thì cảm xúc sẽ “xẹp” như bong bóng xì hơi.
Thơ Khí Tông thì thường Tứ Thơ, Âm Điệu, và Cảm Xúc đều chảy thành
dòng. Nếu cả 3 dòng nhập một thì dòng mạnh kéo dòng yếu, dòng yếu nương theo
dòng mạnh cùng chảy về cuối bài tức là “điểm đến của tứ thơ”.
Cho nên đọc thơ phe Khí Tông là thả tâm trí mình theo dòng chảy
của tứ thơ, dòng âm điệu và thả hồn mình theo dòng cảm xúc (tầng 3) của bài
thơ. “Hiểu” và “cảm” phải xảy ra cùng một lúc để “trí” không có cơ hội xía vào,
nhường quyền cho “tâm” và “hồn” đạo diễn cuộc chơi. Nói “dễ tiêu” là muốn loại lý
trí ra khỏi cuộc chơi để cảm xúc ung dung lớn mạnh. Những chữ, những câu rơi
xuống bài thơ vì “buột miệng”, “lỡ lời”, vì “thiếu kiểm soát” thường giúp bài
thơ thật hơn, hay hơn và được đánh giá cao hơn.
Mô gò cản đường trong Tôi Nghe của Đặng Xuân Xuyến nằm cản dòng
chảy của tứ thơ. Vì là bài thơ viết theo lối Khí Tông nó sẽ trì kéo dòng cảm
xúc (tầng 3), và dĩ nhiên, làm giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ.
3/ Vần:
Bài thơ 5 đoạn thì 4 đoạn vần tạm gọi là đủ ngọt. Không hiểu sao
ở đoạn 3 (8 câu, 34 chữ) tác giả lại bỏ vần khiến dòng âm điệu hơi bị thiếu
“chất keo nối kết”.
4/ Dòng Âm Điệu:
Có cả một đoạn thiếu ngọt nên dòng âm điệu không được trơn tru
lắm, dòng cảm xúc mất trớn, giảm cường độ một lượng đáng kể.
LỜI BÀN:
Giá có thêm một (hoặc 2) cặp vần nữa ở đoạn 3 thì vừa đẹp.
5/ Nhịp Điệu:
Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện, thoải mái với biên độ rộng nên
nhịp điệu uyển chuyển, lúc khoan, lúc nhặt, không đều đều tẻ nhạt. Với cách
chơi câu chữ kiểu này, dú vần có quá ngọt một tý cũng được hóa giải một cách dễ
dàng.
LỜI BÀN:
Giữ được lối phân bổ số chữ một cách tự do tùy tiện như trong TÔI
NGHE, hội chứng nhàm chán vần sẽ không còn là một vấn nạn đối với Đặng Xuân
Xuyến trong những bài thơ sau này.
Đây là thế mạnh của anh mà nhiều thi sĩ khác có muốn cũng không
thể một sớm một chiều mà luyện được.
6/ Vờn Bóng Giữa Sân:
Một ưu điểm nữa của Tôi Nghe là không có hiện tượng vờn bóng giữa
sân. Cảm xúc thôi thúc các con chữ chạy liên tục từ câu đầu đến câu cuối.
7/ Tâm Thế:
Bài thơ được kết hợp bởi 2 loại tâm thế: a/ Chia sẻ tâm tình với
độc giả (Share feelings with them) và b/ Mở valve tim cho cảm xúc tuôn trào
(Take it off your chest) trong đó tâm thế loại b rất dễ tạo cảm xúc tầng 3 hoặc
hồn thơ.
LỜI BÀN:
Bước vào cảnh thơ của TÔI NGHE Đặng Xuân Xuyến đã có một lợi thế
đáng kể: Do làm thơ với tâm thế bất bình, bực bội cao độ nên cảm xúc mạnh,
người đang cơn cao hứng. Dòng chảy của tứ thơ và dòng âm điệu vừa lên đường thì
cảm xúc đang bị dồn nén cũng tuôn ra chảy thành dòng bám theo.
Ba dòng nhập một cùng tiến về phía trước như hứa hẹn sẽ tạo dựng
một cao trào bề thế ở cuối bài.
Nhưng rồi dòng chảy của tứ thơ chậm lại vì gặp mô gò cản đường của
3 câu thơ:
Tháng Tám mùa thu
tám phát giang hồ
khô khốc nổ
Còn dòng âm điệu thì vì đoạn 3 thiếu “chất keo nối kết” nên cũng
không thể tăng tốc để cùng “vai sát vai” với dòng cảm xúc.
Kết quả là dòng cảm xúc bị lực cản trì kéo; bài thơ có cảm xúc
tầng 3 khá mạnh nhưng đoạn kết:
Tôi nghe...
những mảnh đời khốn khó
những anh Vươn (6) sắp trơ lì hãi sợ
có câu tức nước ắt vỡ bờ
khi niềm tin rạn vỡ.
chỉ là thêm một chút thông tin mới chứ không phải cao trào.
Nếu đoạn cuối thoát khỏi vòng kiềm tỏa của hai chữ “Tôi nghe” –
nghĩa là tác giả không nhận thêm thông tin nữa mà tổng hợp những thông tin sẵn
có từ những đoạn trước để đưa ra “một cái gì đó của cái tôi riêng tư” thì có
thể sẽ có cao trào, và dĩ nhiên, sức thuyết phục sẽ mạnh hơn.
Thật đáng tiếc.
Ưu Khuyết Điểm
Về mặt thi pháp bài thơ TÔI NGHE có nhiều ưu điểm – mà toàn là những
ưu điểm Căn Bản Cần Thiết để có thể đưa bài thơ tới bến. Bài thơ cũng có 3
khuyết điểm nhỏ (sửa chữa rất dễ dàng):
1/ Ba câu thơ khó bắt: Chỉ cần thêm chữ “SÚNG” là êm đẹp.
Tháng Tám mùa thu
tám phát SÚNG giang hồ
khô khốc nổ
2/ Thiếu vần ở đoạn 3: Thêm 1 hoặc 2 cặp vần là đủ ngọt.
3/ Đoạn kết bị 2 chữ “Tôi nghe” bó buộc: Bỏ “Tôi nghe” và dùng
“chất liệu” sẵn có “đưa tâm tình của cái tôi riêng tư” vào viết lại đoạn kết.
Kết Luận
Bài thơ TÔI NGHE của Đặng Xuân Xuyến có thi pháp thành công ở mức
độ khá cao. Nhờ thủ đắc một số “thói quen tốt” khi làm thơ nên nếu tự điều chỉnh,
sửa chữa để hoàn thiện thi pháp anh sẽ có cơ hội tiến xa với những bài thơ sau
này của mình.