Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

NHẬN XÉT LAN MAN VỀ BÀI THƠ “HOA TÍM” CỦA DƯ BÌNH

 


Lời Nói Đầu

 

Chị Dư Bình - một bạn Facebook – có lẽ có cảm tình với cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của tôi nên đã nhắn tin cho tôi với lời yêu cầu:

 

“Em muốn được nghe ý kiến của nhà phê bình thượng thặng (chị đã quá khen) về một vài bài thơ (hoặc văn) anh thấy được nhất”

 

Ngoài việc bình thơ tôi thỉnh thoảng cũng góp ý kiến, nhận xét cho một số bài thơ bạn đọc gởi đến nên đã trả lời:

 

“Anh không bình thơ theo yêu cầu nhưng nếu em gởi cho anh bài thơ ưng ý nhất của em anh sẽ góp vài nhận xét về kỹ thuật thơ.”

 

Và trong số 2 bài thơ chị gởi đến tôi đã chọn Hoa Tím để “góp vài nhận xét”

 

Vì thế, đây không phải là một bài bình thơ. Cũng không phải là một “bài cảm nhận”. Trong bài viết này tôi chỉ đưa ra một số nhận xét có tính kỹ thuật với mục đích giúp chị Dư Bình và những người làm thơ, thưởng thức thơ khác - nếu thấy hợp, thấy thích – có thể coi nó như một cái sườn để điều chỉnh (về mặt kỹ thuật) cách làm thơ, thưởng thức thơ của mình.

 

 

HOA TÍM !

 

Nơi phương xa, nhớ về miền quê cũ

Tóc đuôi gà,em trốn giữa đồi sim

Để cho ai cứ mải miết đi tìm

Bông hoa tím,với nụ cười chúm chím



Nắng vàng tan cả một trời kỷ niệm

Hoa tím nhường trái chín tím mọng tươi

Người đã xa,xa khuất phía chân trời

Đành lỗi hẹn, người ơi,mùa Hoa Tím !

 

 

Sử Dụng Bao Nhiêu “Cây Thước” Thì Đủ?

 

Theo lý thuyết thì có 3 Tiêu Chí để thẩm định giá trị một bài thơ: Tứ thơ, kỹ thuật thơ và cảm xúc.

 

Bài Nhận Xét này hơi đặc biệt. Từ 3 Tiêu Chí chính tôi chia thành 14 tiêu chí nhỏ và dùng 14 “cây thước” tương ứng để “đo” giá trị của bài thơ Hoa Tím. (Có bài thơ cần nhiều thước hơn – có thể đến 20 hoặc hơn nữa - và cũng có những bài thơ chỉ dăm bẩy cây cũng đủ)

 

Có cây thước xuất hiện ở bài nhận xét (để hướng dẫn) nhưng nếu bình thơ thì không cần thiết (thí dụ thước số 1). Nếu Tựa Đề “đứng” quá xa với “ct tủy của bài thơ” thì trong bài bình thơ nên góp vài lời công đạo (dĩ nhiên sẽ có chút điểm xấu cho bài thơ). Còn nếu Tựa Đề của bài thơ thích hợp (như Hoa Tím) thì thôi.

 

Một thí dụ nữa là cây thước số 6 (dấu ngắt câu). Thường chỉ những người cẩu thả mới mắc lỗi này – làm mất đẹp hình thức bài thơ. Không nên đưa thước này vào bài bình thơ. Nếu có thể, nhắc riêng tác giả.

 

Trong mỗi cây thước phần chữ màu xanh là để giải thích, phần chữ màu nền là “nhận xét”. Trong bài bình thơ thì phần nhận xét sẽ được khai triển rộng ra để “nói đến đầu đến đũa”. “Tán” rộng ra là “tài” của người phê bình, sẽ tăng đáng kể giá trị của bài bình thơ.

 

Muốn có một bài bình thơ bài bản, tiếp cận tác phẩm toàn diện tôi thường dựa vào cái sườn này.

 

Và bây giờ mời chị Dư Bình và độc giả cùng tôi đi vào phần nhận xét.

 

 

1/ Tựa Đề

 

Đặt tựa đề Hoa Tím là chính xác – “một chữ hay một nhóm chữ chỉ ra cái cốt tủy của bài thơ”

 

2/ Tứ Thơ

 

Không có ẩn dụ nên Tứ và Ý giống nhau - nhớ về đồi sim kỷ niệm với người xưa. Tứ thơ không mới lạ, con đường đã có hàng triệu dấu chân.

Cách tiếp cận tứ thơ cũng bình thường: Không bóng gió, ẩn dụ mà nói thẳng điều muốn nói.

 

 

3/ Ngôn Ngữ, Hình Tượng

 

Đẹp, giản dị, dễ bắt, dễ cảm

 

4/ Câu Thơ

 

Chắc gọn, đơn giản, không mắc lỗi văn phạm, tuy nhiên không có câu thơ nào thật xuất sắc - đội bóng không có cầu thủ siêu sao

 

5/ Chức Năng Truyền Thông

 

Thơ nên là món ăn dễ tiêu.

 

Chức năng truyền thông cuả bài thơ thành công, đọc là hiểu ngay ý của tác giả, không có những “câu đố bí hiểm”, những liên tưởng quái đản khiến ngay cả những độc giả hiểu biết, sành sỏi cũng lắc đầu, “bó tay”.

 

6/ Dấu Ngắt Câu

 

Dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy, dấu chấm than, dấu chấm hỏi nên đặt ngay sau mẫu tự cuối của chữ phía trước. Ngoặc đơn, ngoặc kép phải bao sát chữ hoặc nhóm chữ trong ngoặc nhưng phải để trống một khoảng cách (space) với mẫu tự cuối của chữ phía trước và mẫu tự đầu của chữ phía sau.

 

Thí dụ:

Em đẹp như hoa. Anh thích lắm

Ổi, xoài, sầu riêng tôi đều thích.

 

Trời ơi!

Có phải không? Em đã yêu anh!

Ông Nguyên (tác giả bài thơ) nói với tôi như thế.

Con đó “mồm loa mép giải” lắm.

 

Hoa Tím còn mắc một số lỗi về dấu ngắt câu.

 

7/ Kết Luận:

 

Thâu tóm được ý chính của bài thơ nhưng ấn tượng không sâu đậm

 

8/ Bố Cục, Thế Trận

 

Sự nối kết hợp lý các chữ trong câu, câu trong đoạn, đoạn trong bài.

 

Hoa Tím có thế trận hợp lý.

 

 

9/ Thể Thơ & Phong Thái Của Thi Sĩ Lúc Làm Thơ

 

Dư Bình chọn thể Thơ Mới 8 chữ, vần liên tiếp nên chị đã bớt bị gò bó khi cầm bút viết 8 câu thơ. So với thơ đường luật đây là thể thơ mà mức độ tù túng, trói buộc đã giảm rất nhiều. Giảm nhưng vẫn còn. Chị vẫn phải để ý cách gieo vần, số chữ trong câu nên lý trí vẫn lấp ló đâu đó trong tâm hồn, lời thơ dễ đi lạc vào vùng ảnh hưởng của chữ “xạo”

 

Có thể nói chị chưa có phong thái hoàn toàn phóng khoáng tự do.

 

Điều này ảnh hưởng đến cảm xúc tầng 3 (hồn thơ).

 

 

10/ Vần & Nhịp Điệu

 

1/ Vần: Có những trường hợp sau:

 

     a/ Thiếu ngọt, nối kết lỏng lẻo, âm điệu rời rạc.

     b/ Vừa ngọt, không có hội chứng nhàm chán vần.

     c/ Quá ngọt, hội chứng nhàm chán vần rõ nét.

 

Vần trong Hoa Tím thuộc loại cước vận, vần liên tiếp. Gieo vần kiểu này rất dễ dẫn đến hội chứng nhàm chán vần. Cũng may, bài thơ ngắn, chỉ có 8 câu, có 3 cặp vần (sim tìm, chím niệm, tươi trời) cảm giác ầu ơ nhàm chán chưa kịp xuất hiện thì bài thơ đã hết. Sử dụng vần thành công.

 

2/ Nhịp điệu:

 

     a/ Số chữ trong câu cứng ngắc, không đổi: Nhịp điệu sẽ đều đều tẻ nhạt.

 

     b/ Số chữ trong câu thay đổi: Biên độ thay đổi càng rộng càng giảm cảm giác đều đều tẻ nhạt của nhịp điệu.

 

Hoa Tím có số chữ trong câu không đổi (8 chữ) nhưng nhờ bài thơ ngắn, cảm giác đều đều tẻ nhạt chưa xuất hiện thì bài thơ đã hết.

 

11/ Độ Dài Của Bài Thơ

 

     a/ Quá ngắn (hoặc thể thơ phân mảnh đứt đoạn) cảm xúc “chưa đi đến chợ đã hết tiền”.

     b/ Chưa đủ dài để có sóng sau dồn sóng trước tạo cao trào nên hồn thơ chỉ phơn phớt nhẹ.

     c/ Có sóng sau dồn sóng trước nhưng hồn thơ chỉ ở mức trung bình.

     d/ Có sóng sau dồn sóng trước, có cao trào, hồn thơ lai láng, lời thơ là Tiếng Lòng Chân Thật, bài thơ đã bước vào Bến Bờ Thơ Ca, thi si đã ban cho độc giả ân huệ được giao tiếp với ngài bằng Tiếng Người của Cái Tôi Đích Thực.

 

Hoa Tim chỉ có 8 câu (64 chữ) nên không có “sóng sau dồn sóng trước” để tạo hồn thơ.

 

12/ Dòng chảy của thơ

 

Có dòng chảy hay không? Lững lờ hay nhanh, mạnh?

 

Nhờ vần liên tiếp, câu sau dính liền câu trước, đoạn trước nối kết đoạn sau nên Hoa Tím có dòng thơ rõ rệt - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ và dòng âm điệu.

 

13/ Thành Phần Trong Dòng Chảy

 

Thường thì những bài thơ gieo vần liên tiếp Dòng Thơ được kết hợp bởi 3 dòng nhỏ: Dòng chảy của tứ thơ (về ý), dòng âm điệu và nhịp điệu (dòng nhạc), và sau cùng là dòng cảm xúc tầng 3 (hồn thơ) nếu có.

 

Trong Dòng Thơ của Hoa Tím:

 

     a/ Dòng chảy của tứ thơ thông thoáng dẫn người đọc đi từ câu đầu đến câu cuối.

 

     b/ Dòng âm điệu chảy bon bon nhưng do mỗi câu 8 chữ đều đều nên nhịp điệu tẻ nhạt.

 

     c/ Dòng cảm xúc (tầng 3): Không có

 

14/ Cảm Xúc

 

     a/ Cảm xúc tầng 1 từ câu chữ: khá mạnh

 

     b/ Cảm xúc tầng 2 từ thế trận: Bài thơ chỉ có 8 câu nên mặc dù bài thơ có thế trận hợp lý cảm xúc tầng 2 cũng chỉ hơn mức trung bình chút ít.

 

     c/ Cảm xúc tầng 3:

 

Luồng hơi nóng chảy trong lòng người đọc – không đến từ câu chữ, thế trận mà từ đâu đó giữa 2 hàng kẻ. Đây là thứ cảm xúc cao cấp nhất, quý nhất, làm người đọc sướng nhất, đã nhất - được gọi là Hồn Thơ.

 

Hồn thơ xuất hiện khi các con chữ được tuôn xuống trang giấy trong cơn cao hứng, cảm xúc dạt dào của thi sĩ. Tùy mức độ cao hứng của thi sĩ hồn thơ cũng có nhiều tầng bậc:

 

- Hồn thơ phơn phớt nhẹ: Độc giả cảm thấy lâng lâng xao xuyến.

- Có hồn thơ khá rõ nét nhưng không mạnh: Cảm giác của độc giả mạnh hơn lâng lâng xao xuyến.

- Hồn thơ lai láng: Đây là lúc độ cao hứng của thi sĩ cao nhất đến mức làm thi sĩ lạc thần trí (cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí) nghĩa là lý trí trốn mất, để cảm xúc độc quyền đạo diễn bài thơ (hoặc phần nào đó của bài thơ). Nếu bài thơ có Cao Trào cảm xúc tầng 3 sẽ lên đến đỉnh.

 

Bài Hoa Tím không có cảm xúc tầng 3 – không có hồn thơ.



Kết Luận

 

Hoa Tím có giá trị nghệ thuật ở mức thường thường bậc trung.

 

 

 

Bài Nhận Xét đến đây là hết.

 

 

 

 

BÀN RỘNG HƠN

 

 

Hai Cách Làm Thơ Và Hai Hướng Đi Của Thơ

 

1/ Phe Kiếm Tông: Chú trọng “chiêu thức”.

 

Thi sĩ thường làm thơ ngắn (4 câu), thơ đường luật hoặc chọn thể thơ Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn - nhiều đọan, mỗi đoạn 4 câu – (Thơ Haiku cũng thuộc loại này). Vì không có dòng chảy, cảm xúc hố nào nằm im ở hố đó không lưu chuyển nên không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn thơ.

 

Để chinh phục độc giả thi sĩ chỉ trông nhờ vào câu chữ - ngôn ngữ hình tượng, các thủ pháp kỹ thuật, các biện pháp tu từ, nói chung là cái đẹp văn chương.

 

Định nghĩa thơ của Samuel Taylor Coleridge cổ vũ cho Phe Kiếm Tông này.

 

Poetry: the best words in the best order.  

Thơ: Chữ hay nhất trong thứ tự hợp lý nhất.

https://poemshape.wordpress.com/2013/05/12/on-a-definition-of-poetry/

 

 2/ Phe Khí Tông: Chú trọng nội lực, nội công.

 

Thi sĩ cũng sử dụng chiêu thức nhưng chú trọng nội lực, nội công.

 

Nói theo ngôn ngữ thơ thì đây là loại thơ chú trọng Cảm Xúc – chinh phục độc giả không phải bằng thứ cảm xúc bình thường nằm trong ý nghĩa của câu chữ mà là “luồng hơi nóng nằm giữa hai hàng kẻ” – nghĩa là nằm ngoài câu chữ.

 

Đó là thứ cảm xúc cao cấp, cho độc giả cái cảm giác đã nhất, sướng nhất - người ta gọi là hồn thơ. Hồn thơ chỉ có thể xuất hiện khi lý trí vắng mặt, chữ Xạo trong lời thơ, ý thơ trốn mất. Thi sĩ và độc giả - qua bài thơ – trò chuyện với nhau bằng Tiếng Người Chân Thật.

 

Định nghĩa thơ của Nguyễn Đình Thi có ý đứng về Phe Khí Tông.

 

“Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, - tức là chữ - để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường.” 

 

(Mấy Ý Nghĩ Về Thơ, Nguyễn Đình Thi, Talawas, dòng 20)

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=911&rb=0101

 

Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ

 

Nhận xét về phần kỹ thuật của một bài thơ có nhiều điều để phân tích, bàn luận. Nhưng có 4 điểm tôi cho là quan trọng nhất tạo thành “Cái Nền Kỹ Thuật” mà nếu thấu hiểu và nhuần nhuyễn thi sĩ có thể cho bài thơ của mình chảy thẳng hướng Bến Bờ Thơ Ca.

 

Cái Nền Kỹ Thuật đó chính là Dòng Chảy Của Thơ - gồm: 1/ Tứ thơ nhất khí liền mạch. 2/ Chức năng truyền thông “dễ tiêu”, dễ hiểu, dễ cảm. 3/ Vần & nhịp điệu đủ ngọt, không ầu ơ, tẻ nhạt. 4/ Đủ dài để tạo cao trào.

 

Nếu thi sĩ nắm trong tay Cái Nền Kỹ Thuật - nghĩa là khả năng tạo được Dòng Chảy Của Thơ – thì nếu có tứ thơ hay lại gặp lúc cơn cao hứng bất chợt ập đến cơ hội cho ra đời một bài thơ “để đời” là rất cao.

 

“Đo” Dòng Chảy Của Bài Thơ “Hoa Tím” Bằng “Thước”

 

1/ Tứ thơ (thước số 2): Ý tứ dàn trải liền lạc, nhất khí liền mạch, từ câu đầu đến câu cuối, không phân mảnh đứt đoạn.

 

2/ Chức năng truyền thông thành công (thước số 3 +4 +5): Chữ, câu thơ dễ tiêu, dễ hiểu, dễ cảm, không có mô gò cản đường.

 

3/ Vần và nhịp điệu (thước số 10): Vần liên tiếp, đủ ngọt, không có hội chứng nhàm chán vần. Nhịp điệu đều đều tẻ nhạt vì mỗi câu 8 chữ cứng ngắc.

 

4/ Độ dài của bài thơ (thước số 11): Chưa đủ dài để có sóng sau dồn sóng trước tạo cao trào.


Dòng Chảy của bài thơ Hoa Tím đã có Cái Nền Kỹ Thuật nhưng còn vướng 2 khuyết điểm: Nhịp điệu và độ dài của bài thơ.

 

 

Góp Ý Với Tác Giả Về “Cái Nền Kỹ Thuật” Cho Những Bài Thơ Sau

 

1/ Nên tiếp tục chọn thể thơ nhất khí liền mạch, vần liên tiếp.

 

2/ Duy trì độ “dễ tiêu”, dễ hiểu, dễ cảm của câu chữ.

 

3/ Thay đổi số chữ trong câu để trị chứng bệnh “đều đều tẻ nhạt” của nhịp điệu.

 

4/ Tăng độ dài của bài thơ để cơ hội có “sóng sau dồn sóng trước” cao hơn.

 

5/ Khi bài thơ dài hơn phải giảm độ ngọt của vần

 

     a/ Để ý tránh vần lưng (yêu vận)

 

     b/ Sử dụng thông vận thường hơn

.

     c/ Những chỗ chuyển ý nên chuyển vận (thay hẳn vần khác)

 

 

 Tại Sao Tôi Không Viết Lời Bình Cho “Hoa Tím”?

 

1/ Bài thơ Hoa Tím chưa đủ tầm cỡ, chưa có điểm nào đặc biệt tạo hứng để ra công viết lời bình.

 

2/ Tôi không bình thơ theo yêu cầu nhưng nếu thi sĩ là chỗ thân tình lại thực sự cầu tiến thì sẽ góp riêng vài nhận xét về kỹ thuật thơ để ngài biêt chỗ mạnh chỗ yếu và “tùy nghi sử dụng”. (Chỗ này hơi “không đẹp” nhưng nếu ai nhờ cũng viết thì không có thời gian).

 

 


Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2021

VÀI NHẬN XÉT VỀ KỸ THUẬT THƠ TRONG BÀI “BUỒN RƯNG MÂY HẠ”

 

VÀI NHẬN XÉT VỀ KỸ THUẬT THƠ

TRONG BÀI “BUỒN RƯNG MÂY HẠ”

 

BUỒN RƯNG MÂY HẠ

 

Mây xứ người – mây quê tôi

Đìu hiu đất khách - ngậm ngùi biển dâu

Nhớ thương đau đáu bạc đầu

Non cao điệp điệp - nước sâu trùng trùng

 

Thuở nào mây tím buồn rưng

Nửa chìm đất loạn - nửa hừng trời mê

Đường nào mưa gió bội thề?

Lối đi trốn chạy - ngõ về thương tang

 

Nơi nào ổn? Nơi nào an?

Nơi nào đất mẹ ngập tràn nỗi riêng?

Đâu Bồng Đảo? - Đâu đào Nguyên?

Quê tôi đất mẹ triền miên đoạ đày

 

Thiên tai nhân hoạ từng ngày

Sát na rình rập -- phút giây phủ trùm

[Kình, nghê, lang, sói, beo, hùm

Phùng mang, trợn mắt, banh hàm, nhe răng]

 

Xin Thần, xin Thánh khai ân

Xin TRỜI chấm dứt nghiệt căn tự nguồn

Thiên Lôi, Thổ Địa, Diêm Vương

Ra tay diệt dịch mười phương thái hoà

 

Phù Hư Am, Aug. 10th, 2021.

 

Võ Thạnh Văn

 

Xin phép tác giả Võ Thạnh Văn có một chút thay đổi về hình thức bài thơ để làm nổi bật một điểm đặc biệt trong Kỹ Thuật Thơ của anh.


Đây không phải bài bình thơ mà chỉ là một số Nhận Xét về Kỹ Thuật Thơ của tác giả

 

Ngôn ngữ hình tượng: Chính xác, rõ ràng, đẹp, sang, vài chỗ đắc địa, không thấy “thợ vịn” (chữ thừa).

Câu cú: Gọn chắc, không bị lỗi văn phạm, chuyển tải thông điệp thành công (người đọc hiểu ý tác giả dễ dàng)

Ý tứ liền lạc, nhất khí liền mạch chứ không phân mảnh đứt đoạn.

Bố cục hợp lý

Kỹ thuật lục bát vững

Vần: Vừa chính vận, vừa thông vận, đủ độ ngọt để tứ thơ chảy thành dòng thông thoáng nhưng không có “hội chứng nhàm chán vần”. Lục bát dài đến 20 câu mà tránh được hết các lỗi về vần là rất khéo.

Dưới phần CHÚ THÍCH là hai lỗi chính về cách gieo vần thơ lục bát. Ngay cả Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều cũng mắc phải nhiều lần. Buồn Rưng Mây Hạ của Võ Thạnh Văn là bài thơ lục bát khá dài – 20 câu – mà không dính phải 2 lỗi này cũng đáng được một lời khen khích lệ.

 

Dòng chảy của nhịp điệu mới lạ

Ngoài ra, những câu chữ màu xanh đối nhau chan chát để nhấn mạnh cũng là nét riêng đáng chú ý của bài thơ. Thủ thuật này tạo sự khác lạ cho nhịp điệu thơ lục bát.

 

Có 2 đoạn thơ tôi rất thích:

Thuở nào mây tím buồn rưng

Nửa chìm đất loạn - nửa hừng trời mê

Đường nào mưa gió bội thề

Lối đi trốn chạy - ngõ về thương tang

 

Nơi nào ổn? - Nơi nào an?

Nơi nào đất mẹ ngập tràn nỗi riêng?

Đâu bồng đảo? - Đâu đào nguyên?

Quê tôi đất mẹ triền miên đoạ đày

 

Cảm xúc tầng 1 (Từ ngôn ngữ hình tượng câu chữ): Mạnh.

Cảm xúc tầng 2 (Từ bố cục - thế trận toàn đội): Mạnh.

Cảm xúc tầng 3 (Nếu mạnh sẽ thành hồn thơ): Có nhưng rất yếu.

 

Tứ thơ nặng tính thời sự - đặc biệt là đoạn kết - hòa lẫn trong tiếng than van, cầu xin của rất nhiều thi sĩ khác – không có nét riêng của Võ Thạnh Văn. Đây đúng ra không phải là khuyết điểm nhưng tôi Tiếc.

 

Tóm lại, bài thơ hoàn hảo về mặt kỹ thuật - tạo được dòng chảy tứ thơ, dòng âm điệu, dòng nhịp điệu và cả dòng cảm xúc nhưng viết trong lúc còn khá tỉnh nên ít cảm xúc tầng 3. Hồn thơ chỉ phơn phớt nhẹ.

 

 

 

CHÚ THÍCH

Hai lỗi kỹ thuật về Vần trong thơ lục bát:

1/ Vần Ngang Câu Bát

 

Chúng ta thử đọc bài thơ của Trần Trọng Giá dưới đây:

 ĐỜI

 Đắng cay này gửi vào thơ
Để đêm chia bóng, ngày 
chờ ước 
Tằm ơi! Sao chẳng nhả 
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(FB Lục Bát Việt Nam)

 Hai chữ “chờ mơ” (màu đỏ) ở câu bát tạo hội chứng nhàm chán vần Nặng. (5 chữ cùng chính vận: thơ chờ mơ tơ thơ)

 

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Kiều, Câu 1686-1692)

Hai chữ “nàng han” (màu đỏ) ở câu bát tạo hội chứng nhàm chán vần Nặng. Thêm 2 câu sau, có chữ “nàng” càng nhàm chán hơn.

2/ Vần Quẩn

Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng 
,
Thì chi chút ước gọi 
 duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,

Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa

Trải bao thỏ lặn ác 

Ấy mồ vô chủ, ai  viếng thăm!

Lòng đâu sẵn mối thương tâm

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa

Đau đớn thay phận đàn !

Lời rằng bạc mệnh cũng  lời chung.

Phũ phàng chi bấy hoá công

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha

Sống làm vợ khắp người ta

Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.   

(Kiều, Câu 74-88)

Đây là loại vần “đi dăm phút đã về chốn cũ” (quẩn) - mới đổi vần có một lần là quay lại vần cũ ngay. Đoạn này lỗi rất nặng.

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2021

BÌNH THƠ TẶNG BẠN MỚI QUEN

                   

Lời Nói Đầu

  

Vừa kết bạn FB với Hồ Anh Tuấn xong tôi nhận được tin nhắn của bạn ấy như sau:

 

“Chào Tiên sinh!

Em vào trang đọc mấy bài bình của Tiên sinh thấy hay quá; tính logic học rất cao, phân tích rõ ràng mạch lạc. Em là người yêu thơ và đang tập làm thơ viết theo cảm xúc. Em rất mong được Tiên sinh chiếu cố cho em xin một lời chỉ giáo. Chúc Tiên sinh ngày cuối tuần thật an hạnh”

 

Để tỏ lòng quý mến một người yêu thơ tôi đã chọn một bài thơ của mình phân tích, lý giải để giúp anh bạn làm quen với một số điểm căn bản của Kỹ Thuật Thơ.

 

Lý Do Chọn Bài Thơ

 

1/ À Ra Thế là bài thơ ngắn nhưng có nhiều điểm liên quan đến kỹ thuật thơ đáng để luận bàn, trao đổi.

 

2/ Đứng ở vị trí “tác giả” tôi có thể mạnh miệng hơn khi nói đến tứ thơ và kỹ thuật thơ của tác phẩm.

 

3/ Đây là bài thơ chỉ ở mức “thường thường bậc trung” nên chắc độc giả cũng không nỡ trách tôi “bình thơ của mình” để “mèo khen mèo dài đuôi”.

 

Trải Nghiệm Cá Nhân

 

Thằng Cu Tý của tôi có lẽ nặng nghiệp nên đã cùng tôi chịu nhiều đọa đày, cay đắng. Những năm tù cải tạo, cũng vì mê làm thơ nên tôi luôn bị cùm kẹp trong xà lim và bị đánh đến dập xương xống, liệt 2 chân, rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được cả đường tiểu tiện và đại tiện. Dĩ nhiên lúc ấy thằng Cu Tý cũng bị ảnh hưởng nặng nề và bị xếp vào loại “bất khiển dụng” mấy năm liền.

 

Sống ở Mỹ tôi bị đụng xe 4 lần trong đó có đến 3 lần cả hai xe đụng nhau đều hư hại hoàn toàn, được đưa về bãi xe phế thải bán sắt vụn. Đặc biệt, có một lần “head - on” (hai xe trái chiều đụng nhau) ngay giữa Cầu Kemah (Galveston, Texas). Tôi bị thương nặng, kẹt trong chiếc xe bẹp dúm. Một người lính cứu hỏa phải chui vào hàng ghế sau xe để lấy tay bịt vết đứt trên cổ của tôi đang phun máu lênh láng. Trực thăng đã đáp xuống bãi trống chờ đợi nhưng phải đến hơn 30 phút sau lính cứu hỏa mới cưa đứt xe để lội tôi ra. Ngoài vết đứt 8 cm trên cổ tôi còn gẫy xương đùi phải và 6 xương sườn. Đó là chưa kể những bầm dập khác trên cơ thể. Trong 3 lần đụng xe nặng thằng Cu Tý cũng “te tua” và trở thành “đồ phế thải” khá lâu.

 

 À RA THẾ

 

Mấy đứa con tưởng tôi hà tiện

sợ tốn điện

hao tiền

thật ra không phải vậy

 

Thuở ấy

bụng tôi rất săn

chỉ hơi lên gân

sáu cục nổi lên cuồn cuộn

 

Phía dưới bụng

thằng Cu Tý

hùng dũng hiên ngang

tư thế sẵn sàng chiến đấu

 

Tắm xong đứng trước gương

càng nhìn càng thấy thương

càng nhìn càng hãnh diện

 

Bẵng đi mấy chục năm

một hôm đang tắm chợt nhìn lại mình

bụng không còn sáu cục

mà phình ra cao hơn ngực

 

Phía dưới bụng

thằng Cu Tý

gầy yếu xanh xao

gục đầu ủ rũ

càng nhìn càng thấy buồn

càng nhìn càng tủi hổ

 

Từ đó

Tôi có thói quen

tắm đêm không mở đèn.

 

Tứ Thơ

 

Ảnh hưởng gánh nặng tuổi tác của nam giới trong đời sống vợ chồng.

 

Ngôn Ngữ, Hình Tượng, Câu Cú

 

Ngôn ngữ, hình tượng không cao sang, quý phái mà đơn giản, đời thường; câu cú ngắn gọn, dễ hiểu.

 

Thể Thơ

 

Thơ Mới biến thể, nhất khí liền mạch.

 

Số Chữ Trong Câu

 

Thay đổi tùy tiện, tùy hứng, không theo một quy luật bó buộc nào.

 

Vần

 

Thường là vần liên tiếp nhưng không đều đặn mà lúc có lúc không, không bị bó buộc bởi luật tắc; độ ngọt vừa đủ, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Dòng Chảy Của Thơ

 

Tứ thơ, âm điệu, nhịp điệu quyện với nhau thành một dòng chảy rõ rệt tương đối mạnh.

 

Có dòng chảy của tứ thơ nhờ thể thơ nhất khí liền mạch, không bị phân mảnh, đứt đoạn.

Có dòng chảy âm điệu nhờ vần vừa độ ngọt.

Dòng chảy của nhịp điệu không đều đều tẻ nhạt nhờ số chữ trong câu thay đổi, không tuân theo một quy luật nào.

(Dòng âm điệu và dòng nhịp điệu thường được gọi chung là dòng nhạc trong thơ.)

 

Biện Pháp Tu Từ

 

Bài thơ có một biện pháp tu từ (thủ pháp nghệ thuật) có giá trị như một lớp phấn son trang điểm.

 

Đó là 4 câu đầu:

 

Mấy đứa con tưởng tôi hà tiện

sợ tốn điện

hao tiền

thật ra không phải vậy

 

và 3 câu kết:

 

Từ đó

tôi có thói quen

tắm đêm không mở đèn

 

kết hợp với nhau thành một “câu đố” có câu trả lời bất ngờ, lý thú đầy tính hài hước.

 

Sau đây là lý do tôi đưa thủ pháp nghệ thuật này vào bài thơ.

 

Chuyện thằng Cu Tý của tôi bất khiển dụng, dĩ nhiên, chỉ có hai vợ chồng biết. Trong thời gian vợ chồng “ăn mặn nhưng lại ngủ chay” có nhiều lần tối đến ra khỏi phòng tắm bước về phía giường ngủ vợ tôi thường hỏi:

“’Thằng Cu Tý’ hôm nay có gì lạ không? Chắc là hỏng hẳn rồi ông ơi!”

Có hôm bà ta còn lăn vào chỗ tôi nằm, miệng hỏi, tay mày mò thám hiểm cho rõ thực hư. Tôi chỉ biết ngượng ngùng im lặng.

 

Một hôm tôi bước vào phòng tắm lúc trời chập choạng. Vẫn còn thấy đường nên tôi không bật đèn mà cứ thế mở nước tắm táp. Một lúc sau con gái đi học (và đi làm thêm) về, thấy phòng tắm tối thui lại có tiếng nước chảy nên gõ cửa hỏi “Có ai trong phòng tắm không?” Tôi lên tiếng cho con biết rồi tiếp tục công việc của mình.

 

Chuyện như thế xảy ra thêm một đôi lần nữa. Có điều mấy lần sau con biết rồi nên không hỏi.

 

Vài tuần sau vợ tôi kể lại chuyện con gái tâm sự với mẹ “Không hiểu sao dạo này ba kỳ lắm; tắm buổi tối mà lại không mở đèn!” Tôi phì cười cho qua chuyện nhưng thắc mắc của con đã gợi ý để tôi viết bài thơ À Ra Thế sau này.

 

Biện pháp tu từ “tắm đêm không mở đèn” không phải là lối nói bóng gió bởi cái “ngụ ý” thì đã được “nói toạc móng heo” ở phần còn lại của bài thơ. Nếu bảo là “Show, Don’t Tell” (Gợi, Không Kể) cũng không đúng vì 2 đoạn Gợi đã được Kể ngọn ngành chi tiết ở giữa bài.

 

Tôi cho rằng đây là “phép ẩn dụ 2 cầu”? Xin được có mấy lời giải thích như sau:

 

“Mấy đứa con

tưởng tôi hà tiện

sợ tốn điện hao tiền”

 

Cái “tưởng” đó cứ bám theo người đọc cho đến cuối bài mới có câu trả lời:

 

“Từ đó

tôi có thói quen

tắm đêm không mở đèn.”

 

À! Thì ra ông bố có thói quen như thế nên con mới tưởng là ông hà tiện, sợ tốn tiền điện. Mà “tưởng” như thế là “tưởng” sai (“thật ra không phải vậy”). Đây là cây cầu thứ nhất.

 

Vậy thì ông “tắm đêm không mở đèn” với mục đích gì? Điều này đã được trả lời rõ ràng, chi tiết ở phần giữa bài thơ - để khỏi phải nhìn thấy dáng hình tiều tụy của thằng Cu Tý. Đây là cây cầu thứ hai.

 

Như vậy, cái biện pháp tu từ mà tôi dầy công dàn dựng chỉ có nhiệm vụ làm một lớp “bao bì” cho tứ thơ và tặng độc giả mấy tiếng cười sảng khoái.

 

Bố Cục:

 

Hơi lạ. Đoạn giữa - chuyển tải ý chính của tứ thơ - mạch lạc, hợp lý. Đoạn đầu làm người đọc hơi hoang mang, khó hiểu. Nhưng đọc đến cuối bài thì tất cả đâu vào đấy, người đọc “bắt” được tứ thơ dễ dàng.

 

Tựa Đề

 

Tựa đề của bài thơ là À Ra Thế - lấy biện pháp tu từ làm chỗ dựa – không hay lắm nhưng cũng gần gũi với tứ thơ.

 

Đoạn Kết

 

Vừa hay vừa dở. Gây ngạc nhiên thích thú và tạo một màn hài duyên dáng cho độc giả nhưng làm giảm nỗi buồn – tâm điểm của tứ thơ.

 

 

Cảm Xúc

 

1/ Cảm xúc tầng 1: Từ ngôn ngữ hình tượng, câu cú – bình thường. không đáng kể.

 

2/ Cảm xúc tầng 2: Từ bố cục, thế trận của bài thơ – khá mạnh.

 

3/ Cảm xúc tầng 3:

 

Mời độc giả cùng đọc với tôi đoạn thơ:

 

Thuở ấy

bụng tôi rất săn

chỉ hơi lên gân

sáu cục nổi lên cuồn cuộn

 

Phía dưới bụng

thằng Cu Tý

hùng dũng hiên ngang

tư thế sẵn sàng chiến đấu

 

Tắm xong đứng trước gương

càng nhìn càng thấy thương

càng nhìn càng hãnh diện

 

Đây là đoạn thơ kể lại cái thời thằng Cu Tý còn “hùng dũng hiên ngang”. Đọc đến mấy câu sau thì cảm giác “sướng” (tự hào) – không phải từ ý nghĩa của con chữ mà từ một khoảng không nào đó, là thứ cảm xúc cao quý nhất trong thơ - đã bắt đầu nhen nhúm trong lòng độc giả, nhưng phải nói còn rất nhẹ.

 

Rồi đoạn kế tiếp:

 

Bẵng đi mấy chục năm

một hôm đang tắm chợt nhìn lại mình

bụng không còn sáu cục

mà phình ra cao hơn ngực

 

Phía dưới bụng

thằng Cu Tý

gầy yếu xanh xao

gục đầu ủ rũ

càng nhìn càng thấy buồn

càng nhìn càng tủi hổ

 

nói đến quãng đời thê thảm của thằng Cu Tý – lúc nào cũng “gầy yếu, xanh xao, gục đầu ủ rũ”. Đọc đến mấy câu cuối thì một nỗi buồn - không phải từ những con chữ mà từ đâu đó giữa hai hàng kẻ - đang cố gắng “len lén vào hồn” nhưng bị ngăn lại vì 2 lý do sau đây:

 

1/ Chất hài của biện pháp tu từ đã gây ra “ép phê ngược”. Phải công nhận đó là cái hài “có duyên”, nhưng đang buồn thúi ruột mà chêm vào tiếng cười tiếu lâm, vui nhộn là “không khéo”và đã làm giảm hẳn nỗi buồn.

 

2/ Tôi viết bài thơ lúc đã khỏi bệnh, thằng Cu Tý đã lấy lại được phong độ, có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình khi cần đến. Thời điểm ấy chuyện “tắm đêm không mở đèn” đã chấm dứt. Hai chữ “Từ đó” với nghĩa “Từ đó về sau” là không đúng sự thật. Bóng dáng của chữ “xạo” xuất hiện làm cảm xúc tầng 3 tịt ngòi.

 

Thơ Là Tiếng Lòng Chân Thật

 

Đọc thơ, thấy được cái đẹp cái hay của ngôn ngữ, hình tượng, câu thơ đã là điều đáng quý, hiểu được mức độ hợp lý của thế trận trong bài thơ là đã cao hơn một bậc. Nhưng cao hơn nữa là cảm được cái hơi nóng (nếu có) của cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất, được gọi là hồn thơ.

 

Muốn thế, ngoài cái đầu còn cần có trái tim. Cái luồng hơi nóng từ cảm xúc tầng 3 không phải đến từ câu chữ mà từ “đâu đó giữa 2 hàng kẻ” - nghĩa là từ bên ngoài bài thơ - không thể “tóm bắt” bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn, mà phải là tâm hồn nhạy cảm.

 

Nếu tâm trạng của thi sĩ lúc làm thơ là 1 phần cảm xúc 9 phần lý trí thì lý trí sẽ nắm quyền đạo diễn. Chất thơ của bài thơ sẽ rất ít. Ngược lại, nếu tâm trạng là 9 phần cảm xúc 1 phần lý trí thì lý trí sẽ bị lấn át, bài thơ sẽ nhiều chất thơ hơn. Có điều dù chỉ 1 phần lý trí nó cũng sẽ thỉnh thoảng xía vào đòi chỉnh sửa chỗ này, thêm thắt chỗ kia, lời thơ cũng có bóng dáng của chữ “xạo”, dù rất mờ nhạt.

 

Chỉ khi nào thi sĩ nổi điên, lý trí hoảng sợ trốn biệt, cảm xúc sẽ một mình một chợ tung hoành. Lúc ấy không sợ “quan trên ngó xuống người ta trông vào”, câu chữ cứ ào ạt tuôn ra, lôi kéo theo cả những điều chôn kín từ lâu trong tâm khảm. Lời thơ hoàn toàn là tiếng lòng chân thật.

 

Tóm Tắt Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ “À Ra Thế”

 

1/ Tứ thơ: Nam giới ở tuổi về chiều khả năng sinh lý yếu dần. Đến một lúc nào đó - kẻ sớm người muộn - sẽ hết hẳn. Đó là lẽ thường, không có gì mới lạ.

 

2/ Kỹ thuật thơ: 


Thơ có dòng chảy

 

     a/ Có dòng chảy của tứ thơ nhờ “nhất khí liền mạch”.

     b/ Có dòng âm điệu nhờ vần vừa độ ngọt – không có hội chứng nhàm chán vần.

     c/ Nhịp điệu không đều đều tẻ nhạt nhờ số chữ trong câu thay đổi.

 

3/ Cảm xúc tầng 3: Chỉ mới nhen nhúm lúc thằng Cu Tý còn “hùng dũng hiên ngang” - rất nhẹ, không đáng kể.

 

Bài thơ thành công ở chỗ có dòng chảy thông thoáng nhưng cảm xúc tầng 3 - tâm điểm của tứ thơ - lại không đáng kể.

 

Giá trị nghệ thuật, theo tôi, chỉ ở mức trung bình.

 

Kết Luận

 

Để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ cảm xúc quan trọng hơn thông điệp gấp nhiều lần (1). Bạn Hồ Anh Tuấn “đang tập làm thơ viết theo cảm xúc” là đã đi đúng hướng.

 

Hãy để ý cách khơi dòng chảy của tứ thơ, dòng chảy của âm điệu, và để ý đến nhịp điệu và chờ đến lúc “tâm hồn dậy sóng”. Giây phút ấy mà cầm bút làm thơ thì cảm xúc sẽ trào ra nhập vào 2 dòng chảy kia. “Sóng sau dồn sóng trước” sẽ đẩy khối cảm xúc ấy lên thật cao. Và hồn thơ sẽ ngập tràn lênh láng.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com

 

CHÚ THÍCH

 

1/ Khá đông những người bình thơ bây giờ (cả trong nước lẫn hải ngoại) thường chỉ bám vào thông điệp của bài thơ (tứ thơ) mà tán, ít khi bàn đến kỹ thuật thơ và cảm xúc. Trước mắt họ bài thơ đã tự động chuyển mình để trở thành một áng văn xuôi. Những điểm đặc thù hàm chứa giá trị giá trị nghệ thuật của thơ thường bị phớt lờ.

 

 

PHẦN ĐỌC THÊM

 

Dưới đây là 3 bài thơ nổi tiếng của 3 thi sĩ tài danh được giới thiệu tóm tắt để minh họa cho những điểm chính của bài viết. Cuối mỗi đoạn đều có link để đọc bài thơ.

 

1/ Ta Về của Tô Thùy Yên

 

Ta Về viết theo thể Thơ Mới Trường Thiên, mỗi câu 7 chữ, không nhất khí liền mạch mà phân mảnh đứt đoạn. Bài thơ gồm 31 đoạn, mỗi đoạn 4 câu đứng độc lập, diễn tả một mảnh tâm trạng riêng biệt. Có thể nói đoạn nào cũng hay, nhiều đoạn tuyệt vời, nhưng bài thơ  không có dòng chảy nên cảm xúc ở đoạn nào nằm ở đoạn đó, không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn thơ.

 

https://vnexpress.net/ta-ve-tho-to-thuy-yen-2753724.html

 

2/ Nhớ Rừng của Thế Lữ

 

Nhớ Rừng viết theo thể Thơ Mới nhất khí liền mạch, tâm trạng và cảm xúc chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối. Càng về sau cảm xúc càng mạnh. Bài thơ có 47 câu thì 46 câu 8 chữ, 1 câu phá lệ 10 chữ (Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi). Vần liên tiếp cứ đến hẹn lại lên nên hội chứng nhàm chán vần và nhịp điệu tẻ nhạt rất rõ nét, làm giảm đáng kể mức độ thành công của bài thơ.

 

https://poem.tkaraoke.com/23619/nho_rung.html

 

 

3/ Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương

 

Say Đi Em là Thơ Mới nhất khí liền mạch. Trong Say Đi Em tâm sự của tác giả được dàn trải liền lạc một mạch, từ đầu đến cuối bài thơ. Nhờ số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng, cách gieo vần tài hoa nên dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, đặc biệt 2 đoạn sau dòng chảy rất mạnh.

 

Hơn nữa, tác giả viết trong cơn say đến mức lạc thần trí nên cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng. Lời thơ là tiếng lòng Chân Thật (viết hoa) của “cái tôi đích thực”.

 

Đoạn thơ:

 

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

 

đã chúng minh điều đó. Ông không chống chế, tránh né mà cúi đầu chấp nhận. Nỗi tủi nhục buồn sầu ấy là có thật, to lớn như một bức tường thành lúc nào cũng sừng sững trước mắt ông.

 

 http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?935