Thứ Năm, 13 tháng 8, 2020

VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT

 

 

VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT

 

 

 

Vần Thơ Lục Bát Liên Tục Không Ngừng.

 

Thể thơ lục bát có lối gieo vần bài bản, nguyên tắc, vừa yêu vận, vừa cước vận. Tất cả những chữ vần với nhau đều là thanh bằng. Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát, rồi chữ thứ 8 câu bát vần với chữ th 6 câu lục kế tiếp - cứ thế cho đến hết bài (1).

 

Thí dụ:

 

TRE VIỆT NAM

 

Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre
xanh
Thân gầy guộc, lá mong
manh
Mà sao nên lũy nên
thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc
màu

Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn
lâu hoá nhiều

…………………………………………….

(Nguyễn Duy)

 

 

Các Loại Vần

 

Chính vận: Phần âm giống nhau, khác phụ âm đầu (xanh manh thành)

 

Thông vận: Phần âm na ná, gần giống, phụ âm đầu bất kể (ơi tươi vôi). Ngoài ra, nếu cần "đo độ ngọt" kỹ hơn sẽ để ý đến thông vận gần (an làng) hoặc thông vận xa (lang khương)

 

Chính tự vận: Nguyên chữ giống nhau (tràng tràng, ru ru)

 

Lạc vận: Khác biệt hoàn toàn (cười loan)

 

 

Lục Bát Nhiều Vần

 

Có thể nói thơ lục bát có vần dầy đặc – giống song thất lục bát - nhiều vần hơn hẳn các thể thơ khác.

 

Lượng vần của thơ lục bát được tính theo công thức:

 

Số cặp vần = Số câu – 1

 

Như thí dụ trên, 8 câu đầu của bài Tre Việt Nam có 8 – 1 = 7 cặp vần (giờ bờ, xanh manh, manh thành, ơi tươi, tươi vôi, màu đâu, đâu lâu).

 

Trong khi Thơ Mới liền mạch, vần liên tiếp như 8 câu đầu của bài Áo Lụa Hà Đông dưới đây

 

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà
Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung
quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
……………………………………..

(Nguyên Sa)

 

chỉ có 3 cặp vần (Đông cùng, trng ngắn, quanh dung) được tính theo công thức: Số cặp vần = (số câu/2) - 1 = 3

 

 

Lạc Vận

 

Với thơ lục bát không nên lơ là với vần - nhất là đừng để lạc vận vì lỗi lạc vận là lỗi nặng. Một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”.

 

Thí dụ 1:

 

TÂM ĐỨC LÒNG NGƯỜI

………………………………………………………..

Về nơi đoàn tụ trong lành
Gia đình vui sướng nụ cười tuơi duyên.

(Ghi Nguyen Duc, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Hai câu cuối của bài thơ lạc vận – “lành” không vần với “cười”.

 

 

Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có 2 câu sau đây lạc vận:

 Một vùng cỏ áy bóng

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau

(Câu 97 – 98)

 

” và “vài” lạc vận.

 

Tuy nhiên, sợ giảm nét đẹp của Truyện Kiều một số người đã sửa chữ "vài" thành chữ "" nhưng sửa như thế, theo tôi, quá gượng về ngữ nghĩa, làm "mất đẹp" câu thơ. (2)



Những "trục trặc" về vần ở phần sau của bài viết lúc đầu tôi không gọi là "lỗi" hay "phạm luật" mà chỉ cho là sự "không khéo" của tác giả. Nhưng khi bài viết được phổ biến nhiều độc giả đã đề nghị cứ coi đó là lỗi để các nhà thơ cẩn thận hơn. Vì dù sao những "không khéo" đó cũng ảnh hưởng xấu đến âm điệu của câu thơ, đoạn thơ. (3)

 

1/ Chính Tự Vận 


KHÔNG LÀ GIẤC MƠ

……………………..

Yêu nhau thì phải nồng say

Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng

Cũng không một dạ hai lòng

Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau

……………………

Nguyễn Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “chính tự” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy nghe có “cái gì đó” không thuận tai. Hơn nữa, vừa trùng vận lại vừa trùng ý nên làm dở đoạn thơ.

Mấy câu Kiều sau đây của Nguyễn Du tuy không trùng ý nhưng cũng là kiểu vần “chính tự” (chữ giống chữ). Theo tôi, có lẽ thi sĩ lúc ấy đang ở “thế kẹt”, không tìm được chữ hay hơn. Dù sao đi nữa cũng giảm giá trị nghệ thuật của thơ.

"Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?

Lặng nghe lời nói như ru"

(Câu 346 – 347)


"Mừng thầm được mối bán buôn có lời

Hư không đặt để nên lời"

(Câu 2090 – 2091)

 

 

2/ Vần Quẩn

Đây là loại vần "đi dăm phút đã về chốn cũ" - nghĩa là quay lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận.

 

Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
Cửa hàng buôn bán châu Thai
Thực thà có một, đơn sai chẳng
hề
Thế nào nàng cũng phải nghe
Thành thân rồi sẽ liệu
về châu Thai
Bấy giờ ai lại biết ai
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh    

(Kiều, Câu 2104-2110)

Từ bộ vần (ai Thai sai) mới chuyển qua (hề nghe về) đã quay lại (Thai ai dài). Bộ vần trên kết hợp với bộ vần dưới thành sáu âm chính vận (ai Thai sai Thai ai dài) tạo hội chứng nhàm khá vần rõ nét.

Bởi vậy, nếu không có nhu cầu cho một thi ảnh đặc biệt hoặc một biện pháp tu từ nào đó hãy để dòng chảy của tứ thơ chảy thêm một đoạn nữa rồi hãy quay lại vần cũ cho an toàn.

Đoạn Kiều của Nguyễn Du sau đây cũng “không khéo” tương tự như vậy.

 Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa

Trải bao thỏ lặn ác

Ấy mồ vô chủ, ai viếng thăm!

Lòng đâu sẵn mối thương tâm

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

 Đau đớn thay phận đàn !

Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung.

(Câu 78 – 84)

 

 

3/ Vần Ngang Câu Bát

Cặp vần tai hại từ câu bát - chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của câu bát vần với nhau. 

Chúng ta thử đọc bài thơ của Trần Trọng Giá dưới đây:

 ĐỜI

Đắng cay này gửi vào thơ 

Để đêm chia bóng, ngày chờ ước

Tằm ơi! Sao chẳng nhả

Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!

(FB Lục Bát Việt Nam)

 

Có người gọi đây là lỗi “phong yêu” nhưng tôi không thích cái tên này vì nó dùng cho Đường Luật mà cấu trúc câu của Đường Luật và lục bát khác nhau

Ở đây chữ thứ 6 (chờ) và chữ th 8 câu bát () vần với nhau. Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.

  

Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!

Thương ôi! Không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!

Chiêu hồn thiết vị lễ thường

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Câu 2964-2968)

 

Ba cặp vần “nhan tantan oan, oan nàng ” đã khá “ngọt”, lại thêm chữ “tràng” ở câu bát cuối khiến đoạn thơ bắt đầu ầu ơ, chán ngán; rồi còn hai chữ “oan”, “đàn” (câu bát cuối) tuy không ở vị trí gieo vần nhưng âm vang của chúng cũng đóng góp chút ít vị ngọt. Cuối cùng, anh chàng “hội chứng nhàm chán vần” đã ung dung bước vào.

Đoạn Kiều dưới đây còn "ngọt" hơn.

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Câu 1686-1692)

Đoạn này có 2 câu bát vần ngang. Chỉ cần đọc 5 câu đầu đã thấy ngán vì quá ngọt. Thêm hai chữ “nàng” ở câu bát cuối (một chữ ở vị trí không gieo vần) hội chứng nhàm chán vần càng nặng thêm. 

 

Vần trong thơ lục bát có thể tóm tắt như sau:

 1/ Toàn vần bằng.

 2/ Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.

 3/ Chữ thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế tiếp.

 4/ Nên tránh 4 lỗi về vần là 

     a/ Lạc vận

     b/ Chính tự vận

     c/ Vần quẩn

     d/ Vần ngang câu bát

 

Kết Luận

 

Bài viết này chỉ chú trọng khía cạnh kỹ thuật, trình bày hết sức đơn giản để độc giả thấy được bức tranh toàn cảnh và mấy điểm thực tiễn về vần. Hy vọng rằng có được chút vốn liếng ấy các bạn trẻ sẽ tự tin hơn khi cầm bút làm thơ lục bát.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

 

Có một loại “lục bát biến thể” như 2 bài dưới đây:

 

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

(Ca dao, khuyết danh)

 

Bão lặng mà gió còn lay
Khiến dạ bao ngày ảo não sầu ĐAU
Chỉ ước rạng rỡ về sau
Cho trúc xanh màu để thắm nhành mai.

(Tấn Phước Lê, FB Luật Thơ Tổng Hợp)

 

Vần ở câu lục vẫn như thường lệ. Câu bát gieo vần ở chữ thứ tư. Tuy nhiên, loại “lục bát biến thể” này rất ít gặp.

 

 

Ngoài ra có người còn tách riêng 2 câu đầu của đoạn thơ dưới đây và tặng cho nó danh hiệu “lục bát vần trắc”.

 

Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó
quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào?
(Ca dao)

 

Theo tôi đây chỉ là một sự phá cách đột hứng trong ca dao tục ngữ. Cũng có thể là một kiểu biến thể của song thất lục bát. Sau đó, vì không có nhiều người hưởng ứng sáng tác nên tôi chỉ xem nó như một trong vài trường hợp cá biệt, chưa thể nâng lên hàng “thể thơ”.

 

Do đó, cho đến thời điểm này, lục bát chỉ gieo toàn vần bằng, không có vần trắc.



2/

 

Tôi có gởi bài viết cho bác Vũ Nho, chủ trang web Vũ Nho Ninh Bình thì được bác cho biết qua email rằng có 2 bản Kiều - bản do TS Phan Từ Phùng và bản bản do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo - đều viết rằng:

 

Một vùng cỏ áy bóng

Gió hiu hiu thổi một bông lau

 (Câu 97-98)


Riêng tôi dựa vào trang web sau đây:


TRUYỆN KIỀU BẢN 1866

 

Bản Nôm cổ nhất 1866 mới phát hiện / Nguyễn Quảng Tuân phiên âm - khảo dị và chú giải


Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
by Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Published by Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)

 

𦹵
Một vùng 
cỏ áy bóng tà
󰊄
囂囂𠺙𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một
vài ngọn lau. 

(Câu 97-98)

 

http://www.nomfouvào loạindation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866


 Phần Bàn Thêm

Vần có chính vận, thông vận gần, thông vận và thông vận xa nên độ ngọt của đoạn thơ vì thế mà thay đổi.

 

Vần Ngang Câu Bát

Nếu vần ngang câu bát (chữ thứ 6 và chữ thứ 8) là chính vận (hoặc thông vận gần) và những chữ nối vần ở câu trước và 2 câu sau cũng chính vận thì độ ngọt của vần rất cao, chắc chắn sẽ có hội chứng nhàm chán vần.

Nếu những chữ nối vần ở câu trước và 2 câu sau không là chính vận thì độ ngọt của vần sẽ ít đi - sẽ phải cẩn trọng hơn khi kết luận đoạn thơ có hội chứng nhàm chán vần hay không

Thí dụ:

Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!

Thương ôi! Không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!

Chiêu hồn thiết vị lễ thường

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Câu 2964-2968)

 

Đoạn Kiều này có ba cặp vần “nhan tantan oan, oan nàng ” đã khá “ngọt”, lại thêm chữ “tràng” ở câu bát cuối khiến đoạn thơ bắt đầu ầu ơ, chán ngán; rồi còn hai chữ “oan”, “đàn” (câu bát cuối) tuy không ở vị trí gieo vần nhưng âm vang của chúng cũng đóng góp chút ít vị ngọt. Cuối cùng, anh chàng “hội chứng nhàm chán vần” đã ung dung bước vào.

 

2/

 

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Câu 1686-1692)

 

Đoạn này có 2 câu bát vần ngang. Chỉ cần đọc 5 câu đầu đã thấy ngán vì quá ngọt. Thêm hai chữ “nàng” ở câu bát cuối (một chữ ở vị trí không gieo vần) hội chứng nhàm chán vần càng nặng thêm. 

 

Đoạn Kiều dưới đây có cặp vần ngang câu bát là thông vận xa (vàn ân).

Rảy xin giọt lệ cho người thác oan

Bây giờ trâm gẫy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Trăm nghìn gửi lại tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

(Câu 748-752)

 

Chuỗi vần từ chữ “vàn” đi ngược lên là vần “an”, chuỗi vần từ chữ “ân” đi xuống là vần “ân” âm vang xa cách. Lại thêm chuỗi vần đi lên có chữ “oan” là thông vận gần của 2 chữ “tan vàn”, chuỗi vần đi xuống có chữ “quân” là thông vận của 2 chữ “ân ngần” nên âm vang xa cách lại càng thêm xa cách. Đọc lên rất trơn tru, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Đoạn thí dụ kế tiếp có vần ngang câu bát là thông vận rất gần (nàng than).

 

Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường

Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương

Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than

Ngăn tôi đứng lại một bên

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu

(Câu 1998-2002)

 

“Nàng” có bổn phận phải ăn vần trực tiếp với “thương” và dính líu gián tiếp với “tường” ở phía trên; “than” có bổn phận phải ăn vần trực tiếp với “bên” ở và dính líu gián tiếp với “lên” ở phía dưới.

 

Vì “nàng” với “thương, tường” là thông vận xa, “than” với “bên, lên” cũng là thông vận xa nên hai lần thông vận đi hai hướng khác nhau đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần. Đọc cả 5 câu thấy vừa ngọt, không nhàm chán chút nào.

 

Vần Quẩn

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng 
người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính 
trời biết sao!
Lời vàng âm lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được không
!    

(Câu 490 -496)

Bộ vần (nào tao nao) ở 3 câu trên và bộ vần (sao cao nào) ở 3 câu dưới -toàn là chính vận - kết hợp với nhau tạo độ ngọt cao, đã có hội chứng nhàm chán vần.

Tương tự như đoạn trên, hai bộ vần (nhi đi gì) và (gì nghi gì) cũng toàn là chính vận nên hội chứng nhàm chán vần đã xuất hiện.

Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
Ba mươi sáu chước, chước  là
hơn
Dù khi gió kép, mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng
cơn cớ gì!
Nghe lời nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản  được thân    

(Câu 1108-1114)

 

Trong đoạn Kiều dưới đây bộ vần (nao đào rào) và (đầu dâu cầu) là thông vận xa nên mặc dù là vần quẩn vẫn không có hội chứng nhàm chán vần.

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao
Vẻ chi một đóa yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim
xanh
Đã cho vào bậc bố
kinh
Đạo tòng phu lấy chữ
trinh làm đầu
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi   

(Câu 502-508)

Tương tự như vậy đoạn kế tiếp cũng không có hội chứng nhàm chán vần.

Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối
manh
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!    

(Câu 340- 346)

 

Có lẽ vì hơi phức tạp như vậy nên các nhà phê bình khi bàn về vần trong thơ lục bát đã không cho là phạm luật những trường hợp vần ngang câu bát và vần quẩn.

Chỉ riêng về Vần Quẩn Truyện Kiều có đến 16 đoạn Nhàm Chán Rõ Rệt, 20 đoạn Mấp Mé Nhàm Chán, 22 đoạn Nghiêng Về Phía Nhàm Chán. Độc giả có thể đọc cả 58 đoạn Vần Quẩn Tạo Cảm Giác Nhàm Chán theo link dưới đây

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-tao-cam-giac-nham-chan-van.html

 

 

 

 







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét