Thứ Hai, 28 tháng 8, 2017

KIỂU XẠO CUỐI CÙNG - XẠO VÌ NÉ TRÁNH "CĂN PHÒNG BÍ MẬT"

                              

Câu Hỏi Làm Thi Sĩ Nhìn Kỹ Lại Tâm Hồn Mình 

Giả sử có một thi sĩ nào đó, không có tật nói dóc, không thích “nổ”, viết bài thơ, tứ thơ không kẹt chân ở một bên nào đó của một vấn đề hai mặt, câu hỏi được đặt ra là: “Lúc ấy thi sĩ có xạo không?”

Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều. 

Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: Cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là cái tôi văn hóa. 

Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, càng mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.

“Cái tôi văn hóa” (cái tôi để sống với xã hội) và “cái tôi đích thực” có một sự khác biệt lớn. Đó chính là những gì tiềm ẩn trong vô thức (của “cái tôi văn hóa”), kín đáo điều khiển suy nghĩ và hành động của con người.  Cho nên mặc dù thi sĩ 100% chân thật với “cái tôi văn hóa”, viết bài thơ (về tình yêu, chẳng hạn) không nằm ở bên nào của một vấn đề hai mặt, bài thơ đó cũng chưa phải là tâm tình của “cái tôi đích thực”, vì vẫn còn những điều đã ăn sâu vào tâm khảm, theo tập quán, thói quen, phải che giấu.

Câu Trả Lời Của Trần Hạ Vi

Về điểm này Trần Hạ Vi có câu trả lời sinh động bằng bài thơ Căn Phòng Bí Mật. Xin giới thiệu 2 đoạn hay nhất của bài thơ:

Có những điều sẽ chẳng nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày…
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người


Có những góc tối ở trong hồn
của riêng ta
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
nhưng vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.

Khi còn giấu “những điều không thể nói ra”, “những góc tối ở trong hồn” trong Căn Phòng Bí Mật thì làm sao có sự chân thật hoàn toàn trong thơ.

Như vậy, CPBM gần như là chướng ngại vật cuối cùng của con người đương đại nói chung và thi sĩ nói riêng để trở về “cái tôi đích thực”. Có thể nói tuyệt đại đa số công dân của trái đất, đặc biệt ở các nước văn minh,  đã phải đối diện với chướng ngại vật này. Và trên 99% đã giơ tay đầu hàng.

Chính vì thế những triết gia tây phương – quan ngại đến nhân phẩm của con người – đã phải la toáng lên. Jean Paul Sartre (1) thì báo động “Con người mang thân phận của một kẻ vong thân”. Còn Albert Camus (1) thì nói “Con người đích thực đã bất lực - để một ‘kẻ xa lạ’ nhập vào chiếm hữu thân xác mình.”

Với thi sĩ, nếu lúc nào cũng suy nghĩ, hành xử như một công dân lịch sự của một xã hội văn minh thì cửa  CPBM của họ sẽ được khóa chặt, và trên những bài thơ của họ, một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ truớc mắt mọi người.

Ngược lại, nếu có một giây phút nào đó, thi sĩ cao hứng đến mức nổi điên, đạp tung cánh cửa CPBM, thì những gì được che giấu, lấp liếm từ “muôn kiếp trước” sẽ ùa ra tràn ngập tâm hồn ngài. Vâng, chính lúc ấy, nếu cầm bút làm thơ ngài sẽ lạc vào Miền Đất Hứa. Ở đây, những gì viết ra sẽ ngoài vòng cương tỏa của lý trí cũng như những quan niệm về thẩm mỹ và đạo đức. Nó sẽ là một bài thơ khác lạ – bài thơ với tâm thế của “cái tôi đích thực”. Nếu thi sĩ có kỹ thuật thơ vững vàng, tứ thơ hay (không vướng vào phía nào của một vấn đề hai mặt), bài thơ có nhiều cơ hội về tới bờ bến của thi ca.

Tóm lại, tôi tạm cho là có 4 kiểu xạo trong thơ:

     1/ Lối nói thậm xưng

Đây là kiểu xạo “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (2)

Kiểu xạo này được cả người làm thơ và người đọc thơ đề cao vì nó là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, xạo để làm đẹp, làm tăng giá trị của bài thơ. 
   
     2/ Xạo vì danh lợi riêng tư

Đây là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật - nhằm mưu cầu danh lợi riêng tư. Thi sĩ nếu vướng vào kiểu xạo này không chỉ làm mất đẹp thanh danh của mình mà còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. Phạm tội hình sự nhiều khi có thể “qua mặt” pháp luật chứ phạm tội cố ý xạo (vì danh lợi) trong thơ thì sớm muộn gì cũng bị vạch mặt, chỉ tên.

     3/ Xạo vì đứng ở một bên trước một vấn đề hai mặt.

Đây là kiểu xạo “xoay trở tứ thơ” để có góc nhìn thuận lợi cho phe mình, mục đích để giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận. Chủ thể đối luận có thể trực tiếp tranh cãi nhưng cũng có thể vắng mặt để thi sĩ một mình một chợ dàn trải quan điểm của mình. Đây là kiểu xạo

Ôi! Đẹp quá phe mình, còn phe bên kia
Phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.

Kiểu xạo này rất thường gặp, được cả thi sĩ và độc giả chấp nhận. Dĩ nhiên, nó đỡ xấu hơn xạo vì danh lợi riêng tư.

     4/ Xạo vì né tránh Căn Phòng Bí Mật

CPBM có uy lực rất lớn nên hầu hết các thi sĩ đứng trước nó đều cúi đầu khuất phục để giữ cách sống và viết của “cái tôi văn hóa”, lánh xa “cái tôi đích thực”. Kết quả là thơ của họ, không nhiều thì ít, đều xạo.


CHÚ THÍCH:

1/ Đều là đại diện của Chủ Nghĩa Hiện Sinh.
2/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/986680141469017


Đoạn Viết Riêng Để Trả Lời Trần Hạ Vi

Căn Phòng Bí Mật nằm ẩn khuất nơi một “góc tối ở trong hồn” nhưng uy lực của nó vô cùng dũng mãnh. Không phải chỉ mình THV mà hàng mấy tỷ người trên thế giới, có biết bao người (trong đó có vô số thi sĩ) bằng cấp cao, kiến thức rộng … cũng bó tay để chấp nhận sống (và viết) bằng “cái tôi văn hóa” của mình. Họ - do tập quán lâu đời – luôn né tránh CPBM nên không thể đến gần “cái tôi đích thực”. Nói khác đi, họ đã xạo trong cuộc sống và, dĩ nhiên, nếu là thi sĩ, xạo cả trong thơ.

Trong “Trái Khoáy” tôi có viết:

 Cũng không trách Trần Hạ Vi được. “Cái tôi văn hóa” của cô đậm nét Tây Phương – nơi mà Căn Phòng Bí Mật (Privacy) được tôn trọng và bảo vệ tối đa. Tuyệt đại đa số thi sĩ ở nơi đó cũng đang lăn lộn trên bề mặt ý thức để “chế tạo thơ ca”. Chính vì thế nên Trần Hạ Vi “nửa đời người vẫn long đong”, chưa quay về với chính mình, với “cái tôi đích thực”, cũng là điều dễ hiểu.

THV chưa lường hết được uy lực khủng khiếp của CPBM. Cô hiểu chữ “xạo” theo nghĩa đen của nó – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật – nên cô cứ tưởng nếu mình không “dối trá đời thường” trong thơ có nghĩa là thơ của mình đã là tiếng lòng chân thật, mình đã hoàn toàn cởi mở tâm tình với độc giả. Thực tế không phải như vậy.

THV là tác giả CPBM, một bài thơ có tứ thơ rất hay, chỉ ra một cách sinh động nguyên nhân một vấn nạn to lớn của nhân loại. Có điều cô lại đứng về phía ủng hộ việc khóa kín CPBM để cuộc sống của xã hội văn minh cứ thế  tiếp diễn, con người càng ngày càng xa “cái tôi đích thực” của mình.

Vì không có ý định mở cửa CPBM nên trên thơ của THV – cũng như của hàng triệu thi sĩ khác trên thế giới - một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ  truớc mắt mọi người. Thật ra tôi cũng chẳng đi xa hơn THV được bao nhiêu. Tôi khác cô ở chỗ đã nhận biết CPBM là chướng ngại vật cuối cùng đang cản bước “cái tôi văn hóa” của mình đến với “cái tôi đích thực”. Tôi cũng khác cô ở chỗ đã quyết tâm, chờ cơ hội để mở tung CPBM. Trong số thơ của tôi cũng có vài bài viết trong lúc cửa CPBM đã hé mở. Có điều chỉ viết được vài ba đoạn – do cơn điên chưa đến đỉnh điểm – cánh cửa CPBM lại đóng ập vào. Chính vì thế đọc thơ của mình tôi vẫn thấy chữ Xạo tung tăng trước mặt. Cũng may, chữ Xạo ấy có vẻ nhỏ hơn một số chữ Xạo của những thi sĩ khác.

Tập thơ Lật Tung Miền Ký Ức lại có bài thơ đại ý (Hãy Khóa Kín) Căn Phòng Bí Mật. Trái Khoáy là ở chỗ đó. Xét về tứ thơ thì CPBM như một con cọp vừa dữ vừa đói. Đem con cọp ấy thả vào chuồng dê thì quả là tội nghiệp cho đám dê vô tội.

Để chấm dứt Đoạn Viết Riêng này tôi xin lập lại đoạn kết của bài Trái Khoáy:

Rất mong sẽ có một ngày nào đó, hay chỉ một phút nào đó, Trần Hạ Vi sẽ mở tung cánh cửa Căn Phòng Bí Mật để những tâm tình “thật nhất” của mình chảy tràn vào thơ. Lúc ấy thơ của cô sẽ có một chỗ đứng trang trọng và chính cô sẽ an nhiên tự tại, không còn “long đong” nữa.

Phạm Đức Nhì



Thứ Tư, 23 tháng 8, 2017

MỘT SỐ KIỂU XẠO TRONG THƠ


Lối Nói Thậm Xưng

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)

Thí dụ:

Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston

là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galvston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.

Gió từ Mỹ gởi về:

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.

Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.

(Muốn Gởi Cho Em, Phạm Hữu T, FB Phượng Kim Ngọc Huỳnh)

vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -  lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. 

Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.

Xạo Công Khai – Hy Sinh Danh Dự Và Nhân Cách Vì Lý Tưởng Chính Trị

Đây là trường hợp của Tố Hữu – nhà thơ lãnh đạo sinh hoạt văn hóa văn nghệ của nước VNDCCH một thời gian rất dài. Chúng ta thử đọc mấy câu thơ trong bài Đời Đời Nhớ Ông - Tố Hữu viết để khóc Stalin của Liên Xô:

“Thương biết mấy nghe con học nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít- Ta- Lin”    


“Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười

Với người Việt Nam, khi con bặp bẹ học nói thì được dạy những chữ đơn giản như Ba, Má, Cha, Mẹ … chứ không ai dạy con nói cái chữ tiếng Nga “Xít- Ta- Lin” xa lạ, có 3 vần trong đó có đến 2 vần phức tạp. 

Và cũng theo truyền thống văn hóa của người Việt Nam, chẳng ai đi thương cái “thằng người dưng” những mười phần trong khi cha, mẹ, chồng và chính bản thân mình chỉ thương có một. Tính xạo hiển hiện rõ ràng, công khai ngay trong câu thơ - đọc là hiểu liền, không cần liên tưởng suy luận xa xôi.

Vì mấy câu thơ này mà dù tài thơ hiếm có, uy quyền tột đỉnh, danh dự và nhân cách của Tố Hữu bị người Việt - đặc biệt trong làng thơ - đánh giá rất thấp.

Xạo Ở Thế Trận (Kịch Bản) Của Bài Thơ.

Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay. (Xin đọc bài thơ ở http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/mot-kich-ban-tho-xao.html)

Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi. 

Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều lẽ ra phải thấy.

Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.

Chữ “Vui” Làm Buồn Bài Thơ

Tôi đến với Niềm Tin đầu tiên qua giai điệu nhạc của Anh Linh trước khi biết bài thơ gốc của Nhất Tuấn. Nghe bài nhạc đến đoạn 
"Em biết chăng đời lính
Nắng sớm với sương chiều 
Gió rừng và mưa núi
Đã làm anh vui nhiều” 

tự nhiên tôi thấy chối tai, cảm xúc trong tâm hồn đang trôi theo tiếng hát bỗng khựng lại. Lòng tự hỏi “Trong khung cảnh đó tại sao lại “vui” nhỉ? Mà lại “vui nhiều” mới lạ chứ! Đã từng là anh lính chiến, đóng quân ở rừng sâu, núi cao, tôi đã biết thế nào là
Nắng sớm với sương chiều
Gió rừng và mưa núi
theo đúng nghĩa đen của từng chữ. Tôi quen với khung cảnh ấy, sống trong hoàn cảnh ấy không phải vài ngày, vài tuần mà tháng này qua tháng khác. Những lúc ấy ngồi trong lều nhìn cảnh núi rừng - từ sĩ quan đến lính - mắt thằng nào cũng như đang lạc vào một cõi xa xăm, mặt thằng nào cũng dài thuỗn ra, buồn rười rượi. Dĩ nhiên đời lính ở rừng sâu núi thẳm cũng có những lúc vui - những niềm vui nho nhỏ do người lính tự tạo ra - để quên nỗi nhớ thương quay quắt và để … sống. Nhưng chỉ cần một cái gì đó rất nhỏ nhặt gợi lên kỷ niệm với người thân thì từ sâu trong tâm hồn của họ nỗi buồn chia xa đang đầy ắp sẽ trào ra như thác đổ.
Câu “Đã làm anh vui nhiều” khiến Niềm Tin đang là tâm tình của người lính xa nhà bỗng trở thành một bài thơ, bài hát “phải đạo” (politically correct). Lời thơ, tiếng nhạc đang là những cảm xúc chân thật của con người bất chợt biến thành những lời đầu môi chót lưỡi, dối người và tự dối lòng mình. 
Đúng là chữ “vui” đã làm buồn bài thơ.

Nói Chắc Như Đinh Đóng Cột Nhưng Lại Không Làm

Nhà thơ Trần Trung Đạo có bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười viết về mẹ, rất cảm động, được rất nhiều người ca ngợi. 

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao với
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười

Tôi qua Mỹ năm 1993. Đến cuối năm 1995 mới mua được cái computer và đọc được bài thơ. Không hiểu sao tôi lại táy máy email hỏi tác giả:

Thế anh đã về thăm mẹ chưa?”

Tôi nghĩ với nỗi nhớ thương to lớn, sâu đậm như thế, viết xong bài thơ chắc Trần Trung Đạo phải vùng chạy đi mua vé máy bay về thăm mẹ ngay. Nhưng tác giả email trả lời:
“Tôi còn kẹt vài chuyện nên chưa về được.”
………………………………………………………………………….

Một Vài Nhận Xét

     1/ Lỗi Kỹ Thuật

Trong  Mẹ Và Quê Hương có những câu sau đây:
Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này. Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ.
Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống 8 năm.
Như  vây mẹ trong bài thơ là mẹ nuôi. Khi nói mẹ “trống không” người đọc sẽ hiểu là mẹ ruột. Còn nếu muốn nói đến những loại mẹ “đặc biệt” khác – mẹ kế (ghẻ), mẹ đỡ đầu, mẹ tinh thần, mẹ nuôi - phải nêu đích danh tính chất đặc biệt ấy.

Tôi nhớ đến giai thoại Tô Đông Pha sửa thơ Vương An Thạch. Bình thường ai cũng hiểu Minh Nguyệt là trăng sáng, Hoàng Khuyển là con chó vàng. Nhưng trong bài thơ của Vương An Thạch Minh Nguyệt là tên một loại chim và Hoàng Khuyển là tên một loại sâu. Lỗi ở VAT – không chú thích sự khác biệt độc đáo, chỉ có ở địa phương ấy - nên Tô Đông Pha mới hiểu lầm và sửa bài thơ. (http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/08/loi-binh-ngan-tap-1.html)

Đọc ĐCTTTMC ai cũng hiểu “mẹ” là mẹ ruột của TTĐ. Nếu TTĐ cố ý né chữ “nuôi” để mong gợi thêm cảm xúc của người đọc thì anh đã mắc tội “treo đầu dê, bán thịt chó”. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như vậy. Với anh, ơn nghĩa công lao nuôi dưỡng 8 năm ở Hòa Hưng cũng rất lớn; tình cảm của anh với bà mẹ nuôi cũng rất sâu đậm không kém đối với mẹ ruột. Lẽ ra khi phổ biến bài thơ anh phải chú thích điều đó (ngay dưới bài thơ) để “sòng phẳng” với người đọc nhưng anh lại không làm nên gần 22 năm trôi qua, tôi vẫn đinh ninh mẹ trong bài thơ là mẹ ruột của anh. Nhưng đó chỉ là lỗi kỹ thuật.

     2/ Mười Năm Không Gọi Phone Cho Mẹ  
                                     
“Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. “

Câu đầu tiên khiến tôi sững sờ

“Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người”

Mười năm mới nói chuyện điện thoại với mẹ lần đầu tiên. Mà ai gọi ai? Bà mẹ nghèo khổ ở Hòa Hưng (trên 60 tuổi) gọi điện thoại đường dài cho đứa con thành đạt ở nước Mỹ.  Đọc câu thơ ấy tôi cũng “bỗng lặng người” vì thấy anh tệ quá, anh Trần Trung Đạo ơi.

     3/ Khoảng Cách Giữa Thơ Và Hành Động

Mời độc giả đọc lại mấy câu thơ kèm lời chú thích của PĐN:

Mẹ xa xôi quá làm sao với
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Có khó gì đâu! Bỏ khoảng hơn một ngàn đô mua vé máy bay cộng thêm chút tiền đi đường là gặp được mẹ ngay chứ gì.

Đừng khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ


Ôi! Ráng chờ con thì chờ đến bao giờ? TTĐ từ giã mẹ ra đi năm1981, 10 năm sau (1991) viết bài thơ. Cuối năm 1995 (tôi nhận email của TTĐ) bài thơ viết đã được 4 năm, bà mẹ đã gần 70 tuổi và vẫn tiếp tục … chờ.

Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười

Câu thơ hay quá! Nhưng hơi “đao to búa lớn”. Cần gì “đổi cả thiên thu”. Mua vé máy bay là sẽ trực tiếp thấy vóc hình của mẹ, nghe tiếng mẹ cười và cảm được hơi ấm da thịt của mẹ trong vòng tay, đâu cần “Hơi ấm con tìm trong giấc mơ”.

Thật tình, dù chưa một lần gặp mặt, tôi vẫn quý mến và ngưỡng mộ Trần Trung Đạo. Một số việc anh đã và đang làm cho bà con ở hải ngoại và cả ở trong nước, tôi không làm được dù rất muốn. Nhưng với bài thơ ĐCTTTMC, lời thơ tha tiết quá, tình cảm sâu đậm quá, mà sao hành động của anh chẳng tương xứng tý nào.

Không biết những độc giả khác nghĩ sao chứ lúc đọc email của TTĐ xong là tôi lầu bầu trong miệng:
“Mẹ Kiếp! Lời thơ tha thiết như thế, lời hứa chắc như đinh đóng cột như thế, mà không chịu về thăm mẹ thì thật tội nghiệp cho bà cụ chờ con dài cả cổ suốt mấy năm trời. Mà không biết sau khi anh gởi email cho tôi (nói là “còn kẹt vài chuyện nên chưa về được”) bà còn phải chờ thêm bao nhiêu năm nữa?”

Sau khi hỏi một số bạn bè và nhất là nghe cuộc phỏng vấn về hai tập sách Chính Luận Trần Trung Đạo - biết chắc rằng sau chuyến ra đi năm 1981 cho đến khi tôi viết những dòng chữ này TTĐ chưa hề về Việt Nam – tôi lại càng thương và tội nghiệp cho bà mẹ trong bài thơ.

Nếu chỉ dựa vào văn bản, TTĐ rất khéo nên bài thơ phải nói là hay, ngôn ngữ đẹp và nhiều cảm xúc. Tôi tự trách mình:

“Phải chi đừng táy máy gởi cái email chết tiệt ấy nhỉ!”



Hứa Không Làm Mà Lại Làm.

Nhà thơ Nguyễn Thế Giác có bài thơ Tiết Tháo chỉ có 4 câu với 2 câu kết đầy ấn tượng:

“Không thể cam tâm về với giặc
Dù trĩu đôi vai một mẹ già.”

Ý muốn nói “Dù trĩu đôi vai một mẹ già” (câu thơ rất hay) ông cũng không về Việt Nam để giữ tròn tiết tháo. Lúc ấy tôi mới qua Mỹ được mấy năm, đọc bài thơ, phục ông sát đất, nhưng lại buồn cho mình – cũng còn mẹ già và một lũ em nghèo khổ ở trong nước.  Sau đó khá lâu, tình cờ đọc trên báo, thấy bài thơ Sài Gòn Bây Giờ với tên tác giả là Nguyễn Thế Giác:

Tôi đi trên thủ đô Sài Gòn ngày trước
nhìn rừng người lũ lượt
mà ngỡ mình lạc bước giữa một bãi tha ma”

A! Thì ra nhà thơ đã “về với giặc”. Tôi mở báo lấy số điện thoại gọi cho ông thì được biết ông phải về vì lý do “bất khả kháng” (tôi xin phép không nêu ra đây) và mong tôi thông cảm. Tôi cũng lái xe mò đến chỗ ông làm việc (cơ sở tư nhân) để trực tiếp trò chuyện.

Tôi tin, với bài thơ Tiết Tháo, lúc viết là ông viết thật lòng, tấm lòng của một cựu Sĩ Quan QLVNCH , không muốn về khi đất nước còn nằm trong tay quân thù.  Hoàn cảnh thay đổi; việc ông về (với lý do ấy) là “thiên kinh địa nghĩa”, chẳng ai có thể trách ông được.

Ông chỉ “kẹt” vì bài thơ. Một là, ông long trọng hứa không về mà ông lại về nên ông ngượng. Hai là, ông ngầm chê chúng tôi - những người về thăm gia đình ở Việt Nam - là không có tiết tháo; bây giờ ông thẹn với  hai chữ  “tiết tháo” kiểu quân tử Tàu, đã hơi bị hoen ố, của chính ông.

Xét cho cùng, ông không xạo (với “cái tôi văn hóa” của ông) khi làm thơ; ông chỉ hứa mà không giữ lời. Sự thất hứa của ông, trong trường hợp này, dễ thông cảm hơn Trần Trung Đạo.

Xạo Vì Cái Tựa Đề

Tôi biết đến thi sĩ Đỗ Trung Quân qua nhạc phẩm Quê Hương – thơ của anh được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc. Có nhiều đoạn lời hát đẹp như những bức tranh thơ. Khi phổ nhạc, nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã lược bỏ mấy đoạn và đổi caí tựa từ Bài Học Đầu Cho Con thành Quê Hương. Sau đây là đoạn đầu của bài thơ:

Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dậy phải yêu
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Đọc đoạn thơ tôi nghĩ nhà trường đã nhét một ý niệm quá trừu tượng và phức tạp vào đầu đứa học trò trẻ dại khiến đứa bé phải nhờ mẹ giải thích. Nhưng đọc cái tựa thì tôi giật mình. Bài Học Đầu Cho Con - nghĩa là đứa bé mới học lớp Vỡ Lòng, còn thấp hơn cả Mẫu Giáo. Chuyện này làm sao có thể xảy ra trong thực tế được. Cái tựa đã làm hại bài thơ. Tác giả phải mang tiếng Xạo vì lỗi kỹ thuật. (http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/loi-binh-ngan-tap-3.html)

Xạo Vì Sợ - Vì Muốn Giữ Chức Quyền

Nhà thơ sống trong chế độ độc tài, khi chọn tứ thơ thường phải “né” một số vùng cấm để bản thân và gia đình được bình yên. Những người có chức tước, bổng lộc kha khá đôi khi phải muối mặt viết bài thơ gọi là “hưởng ứng phong trào” để “giữ lấy chén cơm”. 

Khi bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? của cô giáo Trần Thị Lam gây xôn xao dư luận, bên cạnh những bài thơ phụ họa, tán thưởng, tôi cũng thấy vài bài (có ý phân bua cho chế độ và trách móc cô giáo) của những nhà thơ viết “vì mình ở cương vị phải viết”. Tôi gọi họ là những nhà thơ xạo vì chén cơm, manh áo.

Xạo Vì Mình Là Một Trong Hai Phe - Ủng Hộ Hoặc Chống Đối

Trong cuộc sống, rất nhiều khi nhà thơ – vì lý do nào đó - đứng ở một phía của vấn đề. Thí dụ: Cho con cái tự do luyến ái hay hôn nhân do cha mẹ định đoạt? Chọn nếp sống mới hay gìn giữ nét “chân quê"? Hoặc , trong hoàn cảnh trớ trêu của dân tộc Việt Nam, ủng hộ chế độ miền nam hay miền bắc? Để bài thơ có tính thuyết phục - đối với độc giả đồng quan điểm với mình, và nhiều khi, cả phía bên kia - thi sĩ phải xạo, nhưng phải tuân theo một số quy luật (bất thành văn).

Sau đây là một đoạn tôi viết trao đổi với một nhà văn phía bên kia:

Giả sử có một người lính gốc giang hồ, da ngăm đen, có một vết sẹo tròn, đường kính khoảng 2cm bên má trái, trông rất cô hồn. Anh ta can đảm, đánh giặc giỏi, lại may mắn nên nhiều lần được thăng cấp tại mặt trận và được cử giữ chức đại đội trưởng một đại đội trinh sát.

Nếu người lính ấy thuộc phe mình, khi viết về anh ta tôi sẽ lờ tít cái quá khứ giang hồ của anh; tôi cũng sẽ chọn chỗ đứng để chụp hình anh mà không thấy vết sẹo. Bao nhiêu chữ nghĩa sẽ dồn vào sự can trường và tài năng trận mạc của anh ta.

Ngược lại, nếu người lính ấy ở phía bên kia, tôi sẽ viết rất kỹ về quá khứ đâm thuê, chém mướn của anh. Hình chụp phải thấy rõ vết sẹo, và dĩ nhiên, khuôn mặt phải rất cô hồn. Còn lòng can đảm và chuyện xông pha trận mạc chỉ được viết qua loa.

Đó là cách viết của người lính, của nhà văn, nhà thơ chiến sĩ: Cố gắng tối đa để không ca ngợi đối phương, không kể xấu phe mình. 

Nhưng nếu vì người lính ấy thuộc phe mình, tôi lại ngợi khen quá lố: Da anh trắng như trứng gà bóc, dáng người thanh tú, mặt đầy vẻ trí thức…hoặc nếu người lính ấy thuộc phe bên kia tôi lại “thổi” đường kính vết sẹo lên đến 4cm, tưởng tượng thêm trong quãng đời “xã hội đen” anh đã giết nhiều người, hiếp dâm hàng chục cô gái…là tôi đã viết sai sự thật.

Dĩ nhiên chế độ nào cũng có ưu và khuyết điểm. Khi làm thơ ca tụng chế độ của mình, người ta thường chỉ nói về ưu điểm mà phớt lờ khuyết điểm. Ngược lại khi làm thơ chỉ trích chế độ “đối phương” tác giả chỉ nhắm vào khuyết điểm. 

Vâng! Tôi cũng có một thời “thuộc về một phía”, làm thơ chống phía bên kia.

Có một thời bị đọa đày hành hạ
thơ của tôi rực lửa căm thù
máu và nước mắt
ướt đẫm những trang thơ
nực mùi tử khí

Thơ cũng rất đậm màu chính trị
“Màu này thật dễ thương
còn màu đó ‘thấy mà ghê’
Ôi! Đẹp quá phe mình
còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu”
(Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

Từ trong nước ra hải ngoại, trong các cuộc họp mặt bạn bè (cùng lớp, cùng trường, cùng khóa, cùng trại cải tạo, cùng là tù nhân chính trị …) tôi thường được mời đọc thơ - những bài thơ của phe ta – và cũng thường được mọi người tán thưởng. Có mấy lần, nhân ngày hội thơ Nguyên Tiêu, tôi đã ra tận Văn Miếu Quốc Tử Giám tụ họp với các nhà văn, nhà thơ trong nước, nghe thơ của họ và đọc cho họ nghe những bài thơ “không cùng chính kiến” - và cũng được họ thích thú đón nhận. 

Nhưng càng đi sâu vào thơ, càng thấy rõ tính “không hoàn toàn chân thật” của những bài thơ đó, tôi đã tự tay đâm chết “người lính” trong tâm hồn để thơ gần với con người thật của mình hơn.

“Trên trang thơ của mình
tôi chỉ trung thành
với nhịp đập của chính trái tim tôi.”

Nói là nói vậy chứ làm được cũng còn nhiêu khê lắm.

Loại thơ “phe phái” này phải nói Tố Hữu là tay tổ. Ông xoay chuyển tứ thơ rất tài để độc giả của ông thấy phe ta lúc nào cũng đẹp và phe địch lúc nào cũng xấu. Ông đã dùng thủ thuật đó hun đúc tinh thần chiến đấu của dân miền bắc để họ sau cùng “chớp thời cơ” giành chiến thắng. Ngoài cú xạo văng mạng để đời “Khóc Stalin” ông còn xạo (nhẹ hơn) trong một vài bài thơ khác. Tuy nhìên, vì ông đã có “vai diễn” ở phần trên của bài viết này, tôi xin được để dành thời gian còn lại của bài viết cho những vai khác.

Thử đọc bài thơ Chân Quê của Nguyễn Bính:

Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!

Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?

Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!

Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

Nguyễn Bính viết bài thơ Chân Quê nhưng thật ra là đang bước vào một cuộc tranh luận “Nên giữ ‘nét chân quê’ hay chọn nếp sống mới?” Ở đây, chủ thể đối luận của phía bên kia vắng mặt. Ông đã áp dụng đúng nguyên tắc - không ngợi ca đối phương, không kể xấu phe mình”. Ông không vi phạm luật lệ và bài thơ đã có tính thuyết phục khá cao.  

Nhưng xét về tính chân thật trong thơ, Nguyễn Bính đã cho phe của mình được lợi thế (viết toàn cái đẹp, cái duyên dáng của “nét chân quê” trong khi phía bên kia im lặng) - nghĩa là không công bằng với phía bên kia”. Nói khác đi, ông đã xạo một cách khéo léo.

Tóm lại, làm thơ mà vững lập trường (kiểu “nhà thơ - chiến sĩ”), đứng về một phía của một vấn đề nào đó, thì dù là Tố Hữu, Nguyễn Bính hay bất kỳ ai, cũng đều phải xạo - thường là “xạo cố ý” trong lúc xoay chuyển để tìm hướng đi cho tứ thơ – nhưng khi đã “nhuyễn” rồi thì lại rất tự nhiên như thể vô tình. Cái xạo này thường được độc giả đồng quan điểm bỏ qua nhưng những người ở “phía bên kia” - nếu cần tranh luận đến đầu đến đũa - sẽ soi mói.


CHÚ THÍCH:
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/986680141469017



Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?



                                                 

THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?

 


 Người Đời Thường Gian Dối

 

Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:

 

Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.

 

Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu 

 

“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.

 

 Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.

 

“Bởi đàng sau những giọt nước mắt

giữa đám đông

rất có thể

ẩn hiện bóng hình

loài cá sấu.”

 (Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)

 

Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (2)

 

Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.

 Thi Sĩ Có Xạo Không?

 

Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:

 

Thế thi sĩ có xạo không thầy?”

 

Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:

 

Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”

 

Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.

 

Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.

 

 Tại Sao Thi Sĩ Xạo?

 

Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.

 

Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.

 

 Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.

 

Trường Phái Siêu Thực Đã Thất Bại

Dĩ nhiên, xạo có nhiều cách, nhiều kiểu. Có kiểu xạo cố ý, có kiểu xạo vô tình. Có kiểu xạo đáng chê trách, nhiều khi đáng khinh bỉ, có kiểu xạo đáng thương, đáng thông cảm. Nhưng dù xạo kiểu gì đi nữa cũng làm ảnh hưởng đến giá trị của bài thơ.

Xóa hẳn dấu vết của chữ Xạo trong thơ không phải là chuyện đơn giản. Trường phái thơ Siêu Thực ra đời để giải quyết vấn nạn "trục xuất lý trí - nguyên nhân của chữ Xạo - trong thơ" cũng đã thất bại.

 

Có Cách Nào Không?



Nhưng những người yêu thơ cũng đừng lo buồn. Vẫn có phương cách khác, phương cách đặc biệt làm chữ Xạo biến mất để lời thơ trở thành "tiếng lòng chân thật" của thi sĩ, để người đọc và người làm thơ được trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của Loài Người (viết hoa). 

Lúc ấy bài thơ đã nhận được giải thưởng cao quý nhất: Bước Vào Bến Bờ Thi Ca.   

Loạt bài HƯỚNG ĐI CỦA THƠ sẽ bàn đến phương cách này.

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH

 


1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.