Thứ Hai, 31 tháng 8, 2020

NHẬN XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG BÀI THƠ "BIỂN ĐÊM" CỦA NGUYÊN LẠC

 



NHẬN XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG BÀI THƠ “BIỂN ĐÊM” CỦA NGUYÊN LẠC

 

 

BIỂN ĐÊM


Biệt ly từ cuộc bể dâu

Mất nhau từ thưở ba đào quê hương

Người về tìm lại mùi hương

Người về tìm lại thân thương đã rồi...


Biết rằng sương khói mà thôi

Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu

Biển chiều trời vội trốn mau

Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời


Biển xưa bãi cũ tôi ngồi

Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu


Đêm nay biển vắng người đâu?

Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang

Rì rào lớp sóng kêu than

Gió ngàn thông réo gọi oan khiên về


Cát luồn tuôn sợi tay mơ

Tình luồn ngăn nhớ hương mê thân nào

Thịt da nhung mượt đêm nao

Hằn trong ký ức biết làm sao đây?


Biển ơi có biết tình tôi?

Sóng ơi sao xóa dấu người tôi yêu?

Bãi xưa còn lại gì đâu?

Về chi nghe tiếng khóc gào sóng đau?


Vời kia một bóng trăng sầu

Nghìn trùng xa cách biết đâu dõi tìm?

(Nguyên Lạc, phudoanlagi.blogspot.com)

 

Đây không phải là bài bình thơ mà chỉ là vài nhận xét về “kỹ thuật” được thi sĩ áp dụng trong lúc sáng tác bài thơ. Mà trong phần “kỹ thuật” cũng chỉ bó gọn trong 2 điểm: Luật (bằng trắc) và vần.

 

Luật Bằng Trắc

 

Với cái nhìn phóng khoáng của thơ lục bát đương đại bài thơ Biển Đêm đã tuân thủ đầy đủ những yêu cầu về luật bằng trắc – không có chỗ nào sai phạm.

 

1/ Tất cả 13 chữ thứ 4 của câu bát (bài thơ có 26 câu) đều là vần trắc.

 

2/ Tất cả những chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát đều là vần bằng.

 

3/ Chữ thứ 6 câu bát thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh huyền và ngược lại.

 

Những điểm đáng nói đến đều nằm ở cách gieo vần. Trong thơ lục bát chỉ có “lạc vận” là bị coi là sai phạm (mắc lỗi); còn những “lủng củng” về vần khác được coi là những “không khéo” của tác giả.

 

Sau đây là những sai phạm và “không khéo” của Nguyên Lạc trong bài thơ Biển Đêm:

 

Lạc Vận

 

Thịt da nhung mượt đêm nao

Hằn trong ký ức biết làm sao đây?


Chữ “nao” không vần với chữ “làm”, hai câu thơ lạc vận rõ ràng, không phải bàn cãi. Đây là sai phạm (lỗi) nặng về vần trong thơ lục bát.

 

Còn 2 câu:

 

Sóng ơi sao xóa dấu người tôi yêu?

Bãi xưa còn lại gì đâu?

 

thì chữ “yêu” và chữ “đâu” theo tôi, chỉ là thông vận xa (hơi quá xa) chưa đến nỗi lạc vận. Tuy nhiên, nếu có ai bắt bẻ, cho là lạc vận thì tôi cũng không cãi.

 

Vần Nguyên Chữ (Chính Tự Vận)

 

Bài thơ Biển Đêm có đến 2 cặp vần nguyên chữ mà các tay chơi thơ xưa nay đều tránh - ngoại trừ trường hợp có lý do thật đặc biệt.

 

Mất nhau từ thuở ba đào quê hương

Người về tìm lại mùi hương

 

Và:

 

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

 

Dĩ nhiên, gieo vần như vậy không phạm luật. Nhưng làm hội chứng nhàm chán vần nặng thêm, mất hay.

 

Đoạn Kiều 4 câu sau đây cũng có cặp vần nguyên chữ (xưa xưa)

 

Vân rằng: Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?

(Câu 105 đến 108)

 

Nhưng về ý nghĩa đã làm câu trả lời của Thúy Kiều xác đáng hơn, mạnh hơn và hay hơn. Cái hay của ý thơ đã che mờ cái “không khéo” của vần nguyên chữ.

 

 

Vần Ngang Câu Bát - Chữ Thứ 6 Vần Với Chữ Thứ 8

 

…………….

Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Đêm nay biển vắng người đâu?

Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang

…………….

 

Ở đoạn 5 câu này cặp vần ngang câu bát “nhau đầu” (chữ đậm màu đỏ) là “thông vận gần” tạo nên trước sau 5 cặp vần. “Nào nhau” là thông vận, “nhau nhau” là vần nguyên chữ, “nhau đầu” là “thông vận gần”, “đầu đâu, đâu đầu” là chính vận. Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng ầu ơ thì quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục.

 

Vần Quẩn – “Đi Dăm Phút Đã Về Chốn Cũ”

 

Đoạn thơ 11 câu dưới đây, 7 câu đầu là vần quẩn - chỉ mới một lần chuyển vận đã quay về vần cũ. Từ “rồi thôi tôi” quay lại “thời ngồi mươi”.

 

Người về tìm lại thân thương đã rồi...

Biết rằng sương khói mà thôi

Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu

Biển chiều trời vội trốn mau

Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời

Biển xưa bãi cũ tôi ngồi

Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

 

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Đêm nay biển vắng người đâu?

Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang

 

Sau đó lại thêm 5 câu (câu có chữ “nào” thuộc cả 2 đoạn) trong đó có “cặp vần ngang câu bát” “nhau đầu” khiến cả đoạn có đến 7 cặp vần “au”. Ôi thôi! Ầu ơ hết biết.

 

 

Trụ Ở Thanh Huyền

 

Thử đọc đoạn 10 câu sau đây của Biển Đêm.

 

Người về tìm lại mùi hương

Người về tìm lại thân thương đã rồi...


Biết rằng sương khói mà thôi

Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu

Biển chiều trời vội trốn mau

Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời


Biển xưa bãi cũ tôi ngồi

Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

 

Chữ thứ 8 của 5 câu bát đều là thanh huyền. Như đã nói ở trên, viết như thế không sai luật. Nhưng “không khéo”. Âm vang của đoạn thơ đều đều, đơn điệu (monotone), tính  nhạc không hay. Cộng với những “không khéo” khác về vần, đoạn thơ càng thêm “ầu ơ”, buồn ngủ.

 

Kết Luận

 

Bài lục bát Biển Đêm của Nguyên Lạc ngoài việc phạm lỗi lạc vận còn vướng hầu hết những lủng củng, “không khéo” trong việc gieo vần và sự chuyển đổi thanh ngang, thanh huyền giữa hai chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát. Tất cả đều dẫn đến hội chứng nhàm chán vần, khiến âm điệu của bài thơ “ầu ơ”, đọc có cảm giác chán ngán và buồn ngủ.

 

Đành rằng tứ thơ và cảm xúc là hai điểm then chốt của thơ, nhưng vần và dòng chảy của âm điệu, nhịp điệu cũng quan trọng không kém - nhất là thơ lục bát. Thiếu nó, tứ thơ và cảm xúc cũng không thể lưu chuyển thong dong, lội bì bõm dưới dòng mương bị nghẽn.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

 

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2020

LUẬT BẰNG TRẮC TRONG THƠ LỤC BÁT

 

LUẬT BẰNG TRẮC TRONG THƠ LỤC BÁT

 

Người làm thơ Đường Luật phải biết và chấp nhận bó mình trong niêm luật vần đối của nó. Thơ lục bát chỉ có luật, vần nên thi sĩ không bị niêm, đối “kềm kẹp”. Trong bài viết ngắn này tôi chỉ bàn về luật.

 

Đọc xong chắc có người thắc mắc “Sao tui đọc sách và những bài viết trên mạng thấy luật bằng trắc trong thơ lục bát cũng rườm rà, rắc rối lắm mà sao ông viết lại đơn giản quá vậy? Có ‘ăn bớt’ không đó cha nội?”

 

Câu trả lời của tôi:

 

Sau một thời gian dài làm thơ lục bát nhiều thi sĩ đã “vượt rào”, phớt lờ luật tắc. Độc giả mới đầu còn thấy lạ lạ, kỳ kỳ. Đọc riết rồi thấy cũng “ổn” nên bảo nhau “Không có gì mà ầm ĩ”. Dần dà một vài luật tắc rườm rà đó “tuân theo cũng được mà phớt lờ cũng không sao”. Đó là quy luật tiến hóa của thi ca.

 

Vì thế ở đây tôi chỉ nói đến những điểm luật cốt yếu – ở thời điểm này mà không tuân thủ thì bài thơ sẽ bị chê là  “mất tính lục bát”.

 

1/

 

Chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát phải là thanh bằng.

 

2/

 

Chữ thứ 4 câu bát phải là thanh trắc.

 

Mười chữ còn lại thì tự do - bằng cũng được mà trắc cũng không sao.

 

3/

 

Nếu chữ thứ 6 của câu bát thanh huyền (dấu huyền) (thí dụ 1) thì chữ thứ 8 phải thanh ngang (không dấu) và ngược lại (thí dụ 2).

 

Thí Dụ 1:

 

Ba đi Hà Giang mua chè

Kêu con lên giúp đem vềNam

 

Trong thí dụ này tôi “chơi nổi”, chọn 13 chữ còn lại toàn là thanh bằng. Nếu bạn không thích thì tự do thay đổi.

 

Thí dụ 2:

 

Bác Cả bán sáu mẫu vườn

Để lại một mẫu chú Hương cất nhà

 

Ở đây tôi chọn 10 chữ còn lại là thanh trắc. Dĩ nhiên, bạn cũng có toàn quyền thay đổi.

 

Luật bằng trắc của lục bát chỉ có thế. Bạn chỉ cần để ý 4 chữ (in đậm) – 3 bằng một trắc - thì thơ lục bát của bạn luật sẽ vững như bàn thạch.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Trong trang Lục Bát Việt Nam trên Facebook có bài thơ Nước Mắt Ngày Gặp Lại của Thanh Tu có 2 câu:

 

Hôm nay mình gặp lại nhau
Ôm chặt bạn nỗi đau nhói lòng

 

Với luật thơ lục bát hiện hành thì nó phạm luật (chữ “mà” phải chuyển thành chữ khác có thanh trắc mới đúng). Với con mắt người bình thơ như tôi thì bài thơ thất bại một cách oan uổng; ý tứ có hay tôi cũng ngoảnh mặt làm ngơ. Nhưng biết đâu mấy chục năm nữa cách nhìn nhận luật thơ phóng khoáng hơn, bài Nước Mắt Ngày Gặp Lại (hay những bài phạm lỗi tương tự) sẽ được bình phẩm một cách cởi mở hơn.

 

 

 

 

 


Thứ Năm, 13 tháng 8, 2020

VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT

 

 

VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT

 

 

 

Vần Thơ Lục Bát Liên Tục Không Ngừng.

 

Thể thơ lục bát có lối gieo vần bài bản, nguyên tắc, vừa yêu vận, vừa cước vận. Tất cả những chữ vần với nhau đều là thanh bằng. Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát, rồi chữ thứ 8 câu bát vần với chữ th 6 câu lục kế tiếp - cứ thế cho đến hết bài (1).

 

Thí dụ:

 

TRE VIỆT NAM

 

Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre
xanh
Thân gầy guộc, lá mong
manh
Mà sao nên lũy nên
thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc
màu

Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn
lâu hoá nhiều

…………………………………………….

(Nguyễn Duy)

 

 

Các Loại Vần

 

Chính vận: Phần âm giống nhau, khác phụ âm đầu (xanh manh thành)

 

Thông vận: Phần âm na ná, gần giống, phụ âm đầu bất kể (ơi tươi vôi). Ngoài ra, nếu cần "đo độ ngọt" kỹ hơn sẽ để ý đến thông vận gần (an làng) hoặc thông vận xa (lang khương)

 

Chính tự vận: Nguyên chữ giống nhau (tràng tràng, ru ru)

 

Lạc vận: Khác biệt hoàn toàn (cười loan)

 

 

Lục Bát Nhiều Vần

 

Có thể nói thơ lục bát có vần dầy đặc – giống song thất lục bát - nhiều vần hơn hẳn các thể thơ khác.

 

Lượng vần của thơ lục bát được tính theo công thức:

 

Số cặp vần = Số câu – 1

 

Như thí dụ trên, 8 câu đầu của bài Tre Việt Nam có 8 – 1 = 7 cặp vần (giờ bờ, xanh manh, manh thành, ơi tươi, tươi vôi, màu đâu, đâu lâu).

 

Trong khi Thơ Mới liền mạch, vần liên tiếp như 8 câu đầu của bài Áo Lụa Hà Đông dưới đây

 

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà
Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung
quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
……………………………………..

(Nguyên Sa)

 

chỉ có 3 cặp vần (Đông cùng, trng ngắn, quanh dung) được tính theo công thức: Số cặp vần = (số câu/2) - 1 = 3

 

 

Lạc Vận

 

Với thơ lục bát không nên lơ là với vần - nhất là đừng để lạc vận vì lỗi lạc vận là lỗi nặng. Một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”.

 

Thí dụ 1:

 

TÂM ĐỨC LÒNG NGƯỜI

………………………………………………………..

Về nơi đoàn tụ trong lành
Gia đình vui sướng nụ cười tuơi duyên.

(Ghi Nguyen Duc, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Hai câu cuối của bài thơ lạc vận – “lành” không vần với “cười”.

 

 

Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có 2 câu sau đây lạc vận:

 Một vùng cỏ áy bóng

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau

(Câu 97 – 98)

 

” và “vài” lạc vận.

 

Tuy nhiên, sợ giảm nét đẹp của Truyện Kiều một số người đã sửa chữ "vài" thành chữ "" nhưng sửa như thế, theo tôi, quá gượng về ngữ nghĩa, làm "mất đẹp" câu thơ. (2)



Những "trục trặc" về vần ở phần sau của bài viết lúc đầu tôi không gọi là "lỗi" hay "phạm luật" mà chỉ cho là sự "không khéo" của tác giả. Nhưng khi bài viết được phổ biến nhiều độc giả đã đề nghị cứ coi đó là lỗi để các nhà thơ cẩn thận hơn. Vì dù sao những "không khéo" đó cũng ảnh hưởng xấu đến âm điệu của câu thơ, đoạn thơ. (3)

 

1/ Chính Tự Vận 


KHÔNG LÀ GIẤC MƠ

……………………..

Yêu nhau thì phải nồng say

Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng

Cũng không một dạ hai lòng

Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau

……………………

Nguyễn Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “chính tự” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy nghe có “cái gì đó” không thuận tai. Hơn nữa, vừa trùng vận lại vừa trùng ý nên làm dở đoạn thơ.

Mấy câu Kiều sau đây của Nguyễn Du tuy không trùng ý nhưng cũng là kiểu vần “chính tự” (chữ giống chữ). Theo tôi, có lẽ thi sĩ lúc ấy đang ở “thế kẹt”, không tìm được chữ hay hơn. Dù sao đi nữa cũng giảm giá trị nghệ thuật của thơ.

"Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?

Lặng nghe lời nói như ru"

(Câu 346 – 347)


"Mừng thầm được mối bán buôn có lời

Hư không đặt để nên lời"

(Câu 2090 – 2091)

 

 

2/ Vần Quẩn

Đây là loại vần "đi dăm phút đã về chốn cũ" - nghĩa là quay lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận.

 

Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
Cửa hàng buôn bán châu Thai
Thực thà có một, đơn sai chẳng
hề
Thế nào nàng cũng phải nghe
Thành thân rồi sẽ liệu
về châu Thai
Bấy giờ ai lại biết ai
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh    

(Kiều, Câu 2104-2110)

Từ bộ vần (ai Thai sai) mới chuyển qua (hề nghe về) đã quay lại (Thai ai dài). Bộ vần trên kết hợp với bộ vần dưới thành sáu âm chính vận (ai Thai sai Thai ai dài) tạo hội chứng nhàm khá vần rõ nét.

Bởi vậy, nếu không có nhu cầu cho một thi ảnh đặc biệt hoặc một biện pháp tu từ nào đó hãy để dòng chảy của tứ thơ chảy thêm một đoạn nữa rồi hãy quay lại vần cũ cho an toàn.

Đoạn Kiều của Nguyễn Du sau đây cũng “không khéo” tương tự như vậy.

 Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa

Trải bao thỏ lặn ác

Ấy mồ vô chủ, ai viếng thăm!

Lòng đâu sẵn mối thương tâm

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

 Đau đớn thay phận đàn !

Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung.

(Câu 78 – 84)

 

 

3/ Vần Ngang Câu Bát

Cặp vần tai hại từ câu bát - chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của câu bát vần với nhau. 

Chúng ta thử đọc bài thơ của Trần Trọng Giá dưới đây:

 ĐỜI

Đắng cay này gửi vào thơ 

Để đêm chia bóng, ngày chờ ước

Tằm ơi! Sao chẳng nhả

Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!

(FB Lục Bát Việt Nam)

 

Có người gọi đây là lỗi “phong yêu” nhưng tôi không thích cái tên này vì nó dùng cho Đường Luật mà cấu trúc câu của Đường Luật và lục bát khác nhau

Ở đây chữ thứ 6 (chờ) và chữ th 8 câu bát () vần với nhau. Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.

  

Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!

Thương ôi! Không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!

Chiêu hồn thiết vị lễ thường

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Câu 2964-2968)

 

Ba cặp vần “nhan tantan oan, oan nàng ” đã khá “ngọt”, lại thêm chữ “tràng” ở câu bát cuối khiến đoạn thơ bắt đầu ầu ơ, chán ngán; rồi còn hai chữ “oan”, “đàn” (câu bát cuối) tuy không ở vị trí gieo vần nhưng âm vang của chúng cũng đóng góp chút ít vị ngọt. Cuối cùng, anh chàng “hội chứng nhàm chán vần” đã ung dung bước vào.

Đoạn Kiều dưới đây còn "ngọt" hơn.

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Câu 1686-1692)

Đoạn này có 2 câu bát vần ngang. Chỉ cần đọc 5 câu đầu đã thấy ngán vì quá ngọt. Thêm hai chữ “nàng” ở câu bát cuối (một chữ ở vị trí không gieo vần) hội chứng nhàm chán vần càng nặng thêm. 

 

Vần trong thơ lục bát có thể tóm tắt như sau:

 1/ Toàn vần bằng.

 2/ Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.

 3/ Chữ thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế tiếp.

 4/ Nên tránh 4 lỗi về vần là 

     a/ Lạc vận

     b/ Chính tự vận

     c/ Vần quẩn

     d/ Vần ngang câu bát

 

Kết Luận

 

Bài viết này chỉ chú trọng khía cạnh kỹ thuật, trình bày hết sức đơn giản để độc giả thấy được bức tranh toàn cảnh và mấy điểm thực tiễn về vần. Hy vọng rằng có được chút vốn liếng ấy các bạn trẻ sẽ tự tin hơn khi cầm bút làm thơ lục bát.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

 

Có một loại “lục bát biến thể” như 2 bài dưới đây:

 

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

(Ca dao, khuyết danh)

 

Bão lặng mà gió còn lay
Khiến dạ bao ngày ảo não sầu ĐAU
Chỉ ước rạng rỡ về sau
Cho trúc xanh màu để thắm nhành mai.

(Tấn Phước Lê, FB Luật Thơ Tổng Hợp)

 

Vần ở câu lục vẫn như thường lệ. Câu bát gieo vần ở chữ thứ tư. Tuy nhiên, loại “lục bát biến thể” này rất ít gặp.

 

 

Ngoài ra có người còn tách riêng 2 câu đầu của đoạn thơ dưới đây và tặng cho nó danh hiệu “lục bát vần trắc”.

 

Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó
quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào?
(Ca dao)

 

Theo tôi đây chỉ là một sự phá cách đột hứng trong ca dao tục ngữ. Cũng có thể là một kiểu biến thể của song thất lục bát. Sau đó, vì không có nhiều người hưởng ứng sáng tác nên tôi chỉ xem nó như một trong vài trường hợp cá biệt, chưa thể nâng lên hàng “thể thơ”.

 

Do đó, cho đến thời điểm này, lục bát chỉ gieo toàn vần bằng, không có vần trắc.



2/

 

Tôi có gởi bài viết cho bác Vũ Nho, chủ trang web Vũ Nho Ninh Bình thì được bác cho biết qua email rằng có 2 bản Kiều - bản do TS Phan Từ Phùng và bản bản do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo - đều viết rằng:

 

Một vùng cỏ áy bóng

Gió hiu hiu thổi một bông lau

 (Câu 97-98)


Riêng tôi dựa vào trang web sau đây:


TRUYỆN KIỀU BẢN 1866

 

Bản Nôm cổ nhất 1866 mới phát hiện / Nguyễn Quảng Tuân phiên âm - khảo dị và chú giải


Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
by Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Published by Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)

 

𦹵
Một vùng 
cỏ áy bóng tà
󰊄
囂囂𠺙𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một
vài ngọn lau. 

(Câu 97-98)

 

http://www.nomfouvào loạindation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866


 Phần Bàn Thêm

Vần có chính vận, thông vận gần, thông vận và thông vận xa nên độ ngọt của đoạn thơ vì thế mà thay đổi.

 

Vần Ngang Câu Bát

Nếu vần ngang câu bát (chữ thứ 6 và chữ thứ 8) là chính vận (hoặc thông vận gần) và những chữ nối vần ở câu trước và 2 câu sau cũng chính vận thì độ ngọt của vần rất cao, chắc chắn sẽ có hội chứng nhàm chán vần.

Nếu những chữ nối vần ở câu trước và 2 câu sau không là chính vận thì độ ngọt của vần sẽ ít đi - sẽ phải cẩn trọng hơn khi kết luận đoạn thơ có hội chứng nhàm chán vần hay không

Thí dụ:

Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!

Thương ôi! Không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!

Chiêu hồn thiết vị lễ thường

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Câu 2964-2968)

 

Đoạn Kiều này có ba cặp vần “nhan tantan oan, oan nàng ” đã khá “ngọt”, lại thêm chữ “tràng” ở câu bát cuối khiến đoạn thơ bắt đầu ầu ơ, chán ngán; rồi còn hai chữ “oan”, “đàn” (câu bát cuối) tuy không ở vị trí gieo vần nhưng âm vang của chúng cũng đóng góp chút ít vị ngọt. Cuối cùng, anh chàng “hội chứng nhàm chán vần” đã ung dung bước vào.

 

2/

 

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Câu 1686-1692)

 

Đoạn này có 2 câu bát vần ngang. Chỉ cần đọc 5 câu đầu đã thấy ngán vì quá ngọt. Thêm hai chữ “nàng” ở câu bát cuối (một chữ ở vị trí không gieo vần) hội chứng nhàm chán vần càng nặng thêm. 

 

Đoạn Kiều dưới đây có cặp vần ngang câu bát là thông vận xa (vàn ân).

Rảy xin giọt lệ cho người thác oan

Bây giờ trâm gẫy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Trăm nghìn gửi lại tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

(Câu 748-752)

 

Chuỗi vần từ chữ “vàn” đi ngược lên là vần “an”, chuỗi vần từ chữ “ân” đi xuống là vần “ân” âm vang xa cách. Lại thêm chuỗi vần đi lên có chữ “oan” là thông vận gần của 2 chữ “tan vàn”, chuỗi vần đi xuống có chữ “quân” là thông vận của 2 chữ “ân ngần” nên âm vang xa cách lại càng thêm xa cách. Đọc lên rất trơn tru, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Đoạn thí dụ kế tiếp có vần ngang câu bát là thông vận rất gần (nàng than).

 

Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường

Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương

Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than

Ngăn tôi đứng lại một bên

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu

(Câu 1998-2002)

 

“Nàng” có bổn phận phải ăn vần trực tiếp với “thương” và dính líu gián tiếp với “tường” ở phía trên; “than” có bổn phận phải ăn vần trực tiếp với “bên” ở và dính líu gián tiếp với “lên” ở phía dưới.

 

Vì “nàng” với “thương, tường” là thông vận xa, “than” với “bên, lên” cũng là thông vận xa nên hai lần thông vận đi hai hướng khác nhau đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần. Đọc cả 5 câu thấy vừa ngọt, không nhàm chán chút nào.

 

Vần Quẩn

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng 
người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính 
trời biết sao!
Lời vàng âm lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được không
!    

(Câu 490 -496)

Bộ vần (nào tao nao) ở 3 câu trên và bộ vần (sao cao nào) ở 3 câu dưới -toàn là chính vận - kết hợp với nhau tạo độ ngọt cao, đã có hội chứng nhàm chán vần.

Tương tự như đoạn trên, hai bộ vần (nhi đi gì) và (gì nghi gì) cũng toàn là chính vận nên hội chứng nhàm chán vần đã xuất hiện.

Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
Ba mươi sáu chước, chước  là
hơn
Dù khi gió kép, mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng
cơn cớ gì!
Nghe lời nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản  được thân    

(Câu 1108-1114)

 

Trong đoạn Kiều dưới đây bộ vần (nao đào rào) và (đầu dâu cầu) là thông vận xa nên mặc dù là vần quẩn vẫn không có hội chứng nhàm chán vần.

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao
Vẻ chi một đóa yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim
xanh
Đã cho vào bậc bố
kinh
Đạo tòng phu lấy chữ
trinh làm đầu
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi   

(Câu 502-508)

Tương tự như vậy đoạn kế tiếp cũng không có hội chứng nhàm chán vần.

Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối
manh
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!    

(Câu 340- 346)

 

Có lẽ vì hơi phức tạp như vậy nên các nhà phê bình khi bàn về vần trong thơ lục bát đã không cho là phạm luật những trường hợp vần ngang câu bát và vần quẩn.

Chỉ riêng về Vần Quẩn Truyện Kiều có đến 16 đoạn Nhàm Chán Rõ Rệt, 20 đoạn Mấp Mé Nhàm Chán, 22 đoạn Nghiêng Về Phía Nhàm Chán. Độc giả có thể đọc cả 58 đoạn Vần Quẩn Tạo Cảm Giác Nhàm Chán theo link dưới đây

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-tao-cam-giac-nham-chan-van.html