Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019

HAI BÀI THƠ MỘT NIỀM TIN




                                    


1/

CHẮC NGÀI KHÔNG NGHE THẤY

Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho
                    (Mathew 7:7)

Khi siêu bão Haiyan
đang gầm gừ ở hướng đông
đài khí tượng tiên đoán
bão sắp tràn vào Tacloban (1)

Hơn 90 phần trăm dân ở đây
là con Chúa
sấp mình cầu nguyện
xin Chúa xót thương

Khi bão rít trên đầu
sóng biển dâng cao
tiếng kêu cầu càng lớn
càng khẩn thiết

Bão yên, nước rút
cảnh tượng thật kinh hoàng
thành phố tan hoang
xác người nằm xếp lớp

Cha xứ
mở cửa
ngôi giáo đường đổ nát
Chúa Giê-Su vẫn ngoẹo đầu
dang tay trên thánh giá
sợi dây điện
lủng lẳng dưới tai

Ai đó đã đeo cho ngài
một bộ máy trợ thính

Chú Thích:

1/ Thủ phủ của Leyte

“Many of you lost everything. I don’t know what to say to you. Many have asked, why, Lord?” He said: “All I can do is keep silent.”  (Pope Francis said when visited Tacloban on 01/17/2015, 14 months after the Super Typhoon Haiyan.)
“Nhiều người trong số các con đã mất tất cả. Ta không biết phải nói gì với các con. Nhiều người đã hỏi, tại sao, Chúa ơi?” Rồi ngài nói: “Tất cả ta có thể làm là im lặng” (Đức Giáo Hoàng Francis nói khi viếng thăm Tacloban hôm 01/17/2015, 14 tháng sau Siêu Bão Haiyan.)



2/

NGÀI NGHE, THẤY VÀ BIẾT HẾT

Dù người đời nói ngả, nói nghiêng”
tôi vẫn tin
có một Thiên Chúa toàn năng
ngài nghe, thấy, và biết hết
mọi chuyện ở thế gian
“một sợi tóc trên đầu rụng xuống
cũng không ngoài thánh ý của ngài”

Tôi cũng tin
ngài yêu mến loài người
và chính ngài đã tạo nên vũ trụ
những quy luật vận hành của nó
trong đó có quy luật của linh hồn

Tâm trong sáng
ăn ở hiền lành
sẽ sống giữa cảnh thiên đàng
ngay trên mặt đất
khi chết
hồn sẽ bay về chốn an lạc

Lòng dạ tối đen
hành xử nham hiểm, độc ác
sẽ sống giữa lửa thiêu địa ngục
dù giàu có
cửa rộng
nhà cao
và khi từ giã kiếp người
sẽ phải đọa xuống một nơi
rất xa Thiên Chúa.

Ôi Thiên Chúa lòng lành vô cùng
ngài là ngọn đuốc
đưa con người tránh xa địa ngục
hướng đến thiên đàng

Nhưng những chuyện sống chết, thành bại, sướng khổ
của thế gian
chuyển động của đất trời vạn vật
ngài tạo ra quy luật
và để chúng tự vận hành

Những ai rao giảng
rằng cứ tin
cứ thành khẩn cầu xin
là điều gì Chúa cũng sẽ cho toại nguyện
hoặc là họ không “hiểu chuyện”
hoặc là họ phỉnh lừa
ngài đâu phải phù thủy, thầy bùa
có người dâng lễ vật van xin
là “hô phong hoán vũ”

Riêng tôi
đã nguyện tin thờ Thiên Chúa
hàng đêm tâm sự với ngài
những suy nghĩ, lời nói, hành động trong ngày
tôi trải lòng ra
để đúng sai ngài chỉ bảo

Nhưng những chuyện
vợ đẻ con đau
gạo tiền cơm áo
sự nghiệp công danh
thế giới hòa bình hay chiến tranh
núi lửa, bão lụt
sóng thần hay động đất
dĩ nhiên
là ngài biết hết
nhưng như một Quân Vương
chính trực công minh
ngài lặng yên
để quy luật tự nó vận hành

Vì ngài là Thiên Chúa
nhân loại kính mến ngài vì lẽ đó.


Lời Trần Tình

Tình cờ gặp người bạn - một thời làm cùng nghề - có vợ người Philippines. Anh bạn cho biết đang mua sắm chút ít để vợ về Tacloban (Phillippines) thăm đứa cháu (con người anh ruột) còn sống sót sau siêu bão Haiyan. Cả cha mẹ và chị gái cháu đều bị chết thảm trong cơn bão này.

Chị vợ vừa khóc bù lu bù loa vừa nói, giọng trách móc: “Thật tội nghiệp! Anh chị là con chiên ngoan đạo lại hiền lành, tốt bụng, cả làng ai cũng quý mến, kính trọng mà lại gặp tai họa khủng khiếp như thế. Trước khi bão vào anh chị bên ấy và cả tôi bên này hết lòng cầu xin Chúa mà Ngài có chịu nghe đâu.”

Tôi xúc động rồi nổi hứng, ngay tối hôm ấy đã viết xong bài thơ.

Chắc Ngài Không Nghe Thấy được viết theo lối Kiếm Tông – chú trọng cái đẹp của ngôn ngữ, hình tượng, biện pháp tu từ.

Là người thường làm thơ theo lối Khí Tông nên khi chuyển qua Kiếm Tông ngôn ngữ thơ vẫn rất bình dị, đời thường. Hình thức bài thơ, theo thói quen, không bị trói buộc. Vần thoang thoảng. Hồn cốt bài thơ được dồn vào chút “tiểu xảo” ở đoạn kết, nói bóng gió về việc Chúa “không nghe” lời cầu xin của dân Phi.

Mãi đến khi Đức Giáo Hoàng Francis qua thăm Tacloban rồi tâm tình về sự bất lực của mình trước câu hỏi “Tại sao, Chúa ơi?” của giáo dân, tôi mới dám phổ biến bài thơ – nhưng cũng không quên kèm theo phát biểu của Đức Giáo Hoàng để hy vọng được “an toàn trên xa lộ”



 Bài thứ hai - Ngài Nghe, Thấy Và Biết Hết - được viết để giải thích.

Làm thơ, theo các bạn Mỹ của tôi, (tùy trạng thái tâm của thi sĩ) có 3 mục đích:

1/ Reason with them: Nói lý lẽ với độc giả

2/ Share your feelings with them: Chia sẻ tâm tình với độc giả

3/ Get it off your chest: Mở van cho tâm tình, cảm xúc trào tuôn ra khỏi ngực bạn (để khỏi óc ách)

“Mở van cho tâm tình, cảm xúc tuôn ra khỏi ngực” là thượng sách. Với tâm trạng này, nếu thể thơ thích hợp, bài thơ có cơ hội là tiếng lòng chân thật (hồn thơ lai láng).

“Chia sẻ tâm tình với độc giả” sẽ tạo được bài thơ dạt dào cảm xúc nhưng chưa thể nhiều đến mức có hồn thơ.

“Nói lý lẽ với độc giả” là hạ sách. Làm thơ với tâm trạng này thì lý trí sẽ nắm quyền lèo lái nên dù kỹ thuật có siêu cách mấy bài thơ cũng khô cứng, ít cảm xúc, đọc rất chán.

Bài Ngài Nghe, Thấy Và Biết Hết tuy viết theo lối Khí Tông nhưng mục đích lại để “nói lý lẽ” về đề tài tôn giáo - vừa khó nhai, vừa dễ đụng chạm – nên tuy tứ thơ chảy thành dòng nhưng toàn lý lẽ, rất ít cảm xúc, đọc như nhai giẻ rách, rất mệt và rất buồn ngủ.

Với tôi, đây là một trong số những bài thơ thất bại của mình.



PHẠM ĐỨC NHÌ


CÁI TỘI KHÔNG CÀI LẠI KHUY ÁO NGỰC






TAN VỠ

Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ
Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
Con nai rừng của em...

Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có một lần...
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

(Dư Thị Hoàn, tập thơ Lối Nhỏ)

(Bình thơ kiểu lan man, không bài bản)


Tan Vỡ là bài thơ viết theo lối Kiếm Tông: Ra chiêu độc, nhắm vào chỗ hiểm nhưng ít nội lực. Lối viết này nhẹ về cảm xúc, nặng về kỹ thuật - chú trọng cái đẹp văn chương của câu chữ và thế trận. Thi sĩ tỉnh táo nên cảm xúc tầng 3 - ở ngoài câu chữ, phát sinh do trạng thái cao hứng, nổi điên của tác giả (mà đỉnh điểm của nó là hồn thơ) - thường không có hoặc có rất ít. Bài thơ thường ngắn và đoạn kết thường sử dụng thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t Tell) tạo cảm giác thích thú cho độc giả khi “bắt” được tứ thơ.

Bài thơ có hình thức thật dễ thương. Ba câu đầu còn có vóc dáng của Thơ Mới (biến thể). Đến câu thứ tư đã thấy khác lạ. Đọc hết bài thì thấy tay chân tác giả sạch trơn, không còn bóng dáng của xiềng xích, dây nhợ, luật tắc.

Chị còn giữ lại chút vần, nhưng là thứ vần thoang thoảng, phóng khoáng, không trói buộc. Chỗ có, chỗ không, len theo dòng chảy của tứ thơ. Bài thơ có 11 câu, 69 chữ nhưng chỉ có 3 cặp vần (giờ là, chồng lần, nay giây), toàn là thông vận, trong đó có 2 thông vận rất xa nên độ ngọt vừa phải, đủ cho ý này nối tiếp ý kia một cách tự nhiên, tuyệt đối không có hội chứng nhàm chán vần.
 
Tôi đọc to cả bài thơ vài lần để nghĩa của từng chữ, từng câu, từng đoạn thấm vào hồn, để nghe tiếng nhạc êm đềm thánh thót chơi vơi, và để nhận ra kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn của tác giả.

Hai câu đầu:

Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ

đặt nền cho câu kết:

Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

rất khéo. Mở ngăn kéo không đóng, bút viết xong không đậy nắp, đều dễ cho qua. Nhưng “không cài lại khuy áo ngực cho em” thì theo chị, không thể chấp nhận được. Gợi ý đơn giản mà rất hợp.

Hai câu 3 và 4

Ôi anh yêu, lơ đãng đến
Con nai rừng của em...

rất tình và dễ thương. Đây cũng là chỗ bước ra khỏi lề luật của Thơ Mới biến thể.

Bài thơ thành công ở chỗ tác giả đã chuyển tải được tâm tình của mình đến độc giả một cách điệu nghệ; chị đã thành thật bày tỏ điều mình muốn nói, và độc giả đã hiểu được, cảm được cái thông điệp ấy không khó khăn lắm.

Có một điều hơi trái khoáy nơi cảm xúc của tác giả. Tâm trạng của chị lúc làm thơ có thể nói là “nóng như lửa”. Lý do: Sau khi cho người yêu thám hiểm và mân mê  “đôi gò bồng đảo” hắn lại đành lòng không cài lại khuy áo ngực cho mình. Nó được biểu lộ ở chỗ ngay đêm hôm đó, sau khi chia tay từ “ghế đá”, chị đã tự ý quyết định cắt đứt mối tình.

Sự đè nén cảm xúc của nhà thơ Dư Thị Hoàn thật đáng nể phục. Chị đã biểu lộ sự thâm trầm của một phụ nữ có bản lãnh.  “Giận đến điên tiết” nhưng lời thơ vẫn nhẹ nhàng, giọng điệu vẫn dịu dàng.


Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có một lần...
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

Nhẹ nhàng, dịu dàng nhưng dứt khoát. Hai chữ “đêm nay” chứng tỏ chị đã quyết định dứt khoát ngay sau đó. Và cái tựa Tan Vỡ là kết quả đương nhiên.

Đáng tiếc là sự đè nén đó đã làm bài thơ thiếu hơi nóng, chỉ khơi gợi được cảm xúc tầng 1 (từ câu chữ), cảm xúc tầng 2 (từ thế trận). Cảm xúc tầng 3 hầu như không có.


Bình luận về bài thơ luôn gây tranh cãi này, Tiến sĩ Trần Ngọc Hiếu dẫn chứng luận điểm của một tôn giáo: “Thân thể của tôi là luật của tôi”. Ông cho rằng “… Người phụ nữ có thể chấp nhận người đàn ông vô tâm, nhưng đến mức không cài lại khuy áo (đã vượt giới hạn cho phép - chữ của PĐN), là dấu hiệu cho thấy người phụ nữ này ý thức về thân thể mình, sự tổn thương của mình, cô ấy đòi hỏi sự tôn trọng, cần được nhìn như một cái gì bình đẳng”. (1)

Tôi không đồng ý với nhận xét của Tiến Sĩ Trần Ngọc Hiếu.

Nguyễn Thị Hoàng Bắc – qua bài Ngọn Cỏ - muốn đái đứng để đòi lại quyền bình đẳng với nam giới, nhưng lời kêu gọi của tác giả Ngọn Cỏ không được nhiều người hưởng ứng (2). Lý do: Hình ảnh người phụ nữ đứng đái – do đặc tính của bộ phận sinh dục (kiêm bài tiết) – không những không được đẹp mà còn rất phản cảm nữa.

Trong khi đó, Tan Vỡ của Dư Thị Hoàn chỉ là sự ương ngạnh đầy cá tính của một phụ nữ thích được hoàn toàn độc lập trong cách suy nghĩ và ứng xử của mình, chẳng liên quan đến bình đẳng hay nữ quyền gì hết.

Trong bài Sài Gòn Một Chiều Em Lỡ Hẹn tôi có viết về cô bạn gái thời vẫn còn rất trẻ:

“Còn nhớ không? Có lần anh lấn tới
Cũng một buổi chiều, em vẽ một làn ranh
Đây là biên giới.
Đừng bao giờ vượt quá nghe anh (3)

Dù tình từ cảm mến đã đến chỗ yêu thương nhưng nàng vẫn muốn giữ gìn, không muốn người yêu coi thường mình. Tôi hoàn toàn chấp nhận thái độ tự trọng ấy. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, làn ranh ấy đã được vẽ lui lại mấy lần khi tình thêm sâu đậm. Và sau cùng, trong cơn cao hứng, tôi xóa sạch làn ranh; nàng phụng phịu một tí rồi cũng vẫn mỉm cười vui vẻ. 

Trường hợp của Tan Vỡ thì khác. Tình của hai người đã chin mùi, sắp sửa thành vợ, thành chồng. Nàng đã mở cổng hai lớp rào đón chàng vào thăm khu đồi hai quả của mình. Chàng và nàng đã đê mê “sau phút giây êm đềm trên ghế đá”. Thế rồi chỉ vì “Anh không cài lại khuy áo ngực cho em” mà nàng, không một lời cảnh báo, cắt đứt mối tình, “mời chàng đi chỗ khác chơi”.

Ở đây không phải vì lòng tự trọng mà vì trong cơn bốc đồng, tự ái dâng lên cao độ, chị đã đưa ra một quyết định không hợp lý mà cũng chẳng hợp tình – ngôn ngữ đời thường là “chảnh không phải lối”.

Hơn nữa, mình cài khuy áo ngực cho mình thì không khó lắm. Nhưng người khác cài cho mình thì không phải dễ - nhất là hai người ngồi bên nhau trên ghế đá. Nếu không đứng lên cũng phải xoay lưng lại. Rồi còn trời tối, không thấy rõ ràng nên cũng phải mò mẫm một lúc may ra mới cài được. Mà đây là ghế đá chứ có phải nhà riêng, phòng riêng đâu. Mò mẫm kiểu đó lỡ có ai thấy người ta cười chết.  

 Mới dạo thăm “hai quả đồi” mà luật lệ đã khắt khe như thế, còn khi đã thành vợ thành chồng thì sao? Đâu phải chỉ có khuy áo ngực mà cả áo quần lớp này lớp khác. Cứ cái tinh thần ấy, luật lệ ấy thì ân ái không còn là lạc thú mà sẽ trở thành những bực mình, khó chịu; không khéo thì chẳng bao lâu cả anh chồng lẫn chị vợ đều mắc phải chứng bệnh lãnh cảm.

Bởi vậy tôi hoàn toàn đồng ý với nhà nghiên cứu Hoàng Tố Mai khi bà cho rằng “Bài Tan vỡ tôi lại không để ý lắm. Tôi không quan tâm chuyện cài lại áo, vì đối với tôi quần áo ai người ấy mặc”. (1)

Tóm lại, Tan Vỡ là một bài thơ hay, đặc biệt là hình thức (thi pháp) của bài thơ. Nó đã thoát khỏi trói buộc của các thể thơ truyền thống, vượt qua Thơ Mới, kể cả Thơ Mới biến thể.

Số chữ trong câu tùy tiện, Số câu trong bài tự do, viết hết ý thì thôi.

Như đã nói ở trên, tác giả còn giữ lại chút vần, nhưng là thứ vần thoang thoảng, phóng khoáng, không trói buộc.

Tứ thơ thông thoáng, dàn trải tâm tình của tác giả một cách dễ dàng và hiệu quả.

Tiếc là thông điệp của tứ thơ quá “chảnh” nên khó tìm được người đồng thuận chứ đừng nói là đồng cảm.

Theo tôi, nhà thơ Dư Thị Hoàn nắm vững và đã đi trước nhiều nhà thơ đương đại về thi pháp. Nếu chị chuyển qua viết theo lối Khí Tông thì với kỹ thuật thơ mới mẻ và nhuần nhuyễn như thế, lại gặp được trạng thái tâm rung chuyển mạnh mẽ như khi đặt bút viết Tan Vỡ, tôi tin rằng thơ của chị sẽ có hồn, sẽ lưu lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Và dĩ nhiên, vị trí của chị trong làng thơ sẽ còn cao hơn nữa.

Phạm Đức Nhì

CHÚ THÍCH:




Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

LẠI THÊM HAI ĐÓA HOA HỒNG



Nhắc Lại Chuyện Văn Chương Trên Facebook

Trò chơi văn chương trên FB khác với các trang web văn học trên Internet. Nơi đây tác giả và độc giả thuộc đủ mọi thành phần, thượng vàng hạ cám. Việc góp ý, bình luận trên FB rất dễ dàng. Miễn bạn giữ thái độ lịch sự, hòa nhã thì dù bình luận của bạn có “chưa tới”, dở ẹc hoặc “trật bàn đạp” cũng đều được đón nhận một cách vui vẻ.

Những bài viết về thơ của tôi nhận được khá nhiều bình luận như vậy. Nhưng bên cạnh đó cũng có những bình luận nội lực văn chương sung mãn, thổi vào bài viết một luồng gió mới tươi mát, đưa ra một phương cách mới để nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc.
                   
Bài Thơ Xuất Hiện Như Ánh Chớp

Cách đây không lâu, dưới bài viết Hồn Thơ Và Cảm Xúc của tôi trên Facebook có một bình luận bằng thơ (4 câu) và một đoạn văn của Vân Anh:

Không là dòng chảy trong mương
Không là sóng cả đại dương thăng trầm
Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.

Cám ơn anh Nhì Phạm.
Bài viết của anh thật thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng nhưng vẫn chưa thấy dáng dấp thơ trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá nhiều lỗ hổng trong những dòng nguệch ngoạc của mình.

Ý của đoạn thơ là “Chính những nhà bình thơ - đúng ra là tác phẩm của họ - đã giúp thi sĩ chỉnh sửa những vụng về, bất cập trong sáng tác thơ cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của mình”.

Vân Anh đã kín đáo bày tỏ lòng biết ơn đối với những bài bình thơ mà chị đã nhân cách hóa thành chữ Người một cách trân trọng và quý mến.

Thấy bài thơ hay quá (đoạn thơ sau đó có tên là Mạch Nước Ngầm) tôi đã viết lời bình với tựa Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ.

Bài Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ được đăng trên Facebook vào lúc 7 giờ 28 sáng ngày 29 tháng 6 / 2019 (giờ Houston, Mỹ) thì đến 23 giờ 05 (giờ Việt Nam) cùng ngày, đã thấy dưới bài viết ấy, ở dạng bình luận, bài thơ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh của Vân Anh.

Bỏ qua 12 tiếng cách biệt giữa Houston và Việt Nam thì từ lúc đọc bài viết của tôi rồi bắt đầu sáng tác cho đến lúc chị đăng bài thơ chỉ khoảng hơn 3 tiếng đồng hồ. Tôi nghĩ chị phải ở trạng thái thật cao hứng và xúc động mạnh mẽ nên mới có thể hoàn tất bài thơ nhanh như thế.

Dưới đây là link dẫn đến khung cảnh ra đời của bài thơ trên Facebook.



NHÂN TÌNH CỦA NHỮNG ÁNG VĂN XANH

1/
Bầu bạn với văn chương
em nhẹ lướt đi
bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ
nháy mắt cười
với ca dao, ngạn ngữ
nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với riêng anh

2/
Anh trải rộng
những cánh đồng mướt xanh
em ngửa mặt hít hà hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi
thuyền em trôi thênh thang

3/
Tình mình lặng thầm mà chứa chan
em có thể cười vang
khi gặp gỡ
có thể vỗ về
ru êm vào giấcngủ
tha thiết không còn đủ với đời
em son sắt văn chương

4/
Câu chữ vấn vương
âm vần lưu luyến
và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của những áng văn xanh.

(VÂN ANH)

Hình Thức Thơ

Nhân Tình Của Những Áng văn Xanh có hình thức của Thơ Mới biến thể, vần liên tiếp cứ đến hẹn lại lên (16 câu, 7 cặp vần - trừ câu đầu và câu cuối). Biến thể ở chỗ số chữ trong câu thay đổi tùy hứng khiến nhịp điệu không tẻ nhạt vì lập đi, lập lại. Và nhờ nhịp điệu thay đổi như thế nên không có hội chứng nhàm chán vần.

Đây là bài thơ nhất khí, liền mạch – nghĩa là tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối, ngoại trừ những chỗ tác giả tự ngừng nghỉ để chuyển ý chứ không vì tuân theo quy luật của thể thơ. Với thế trận này, thơ được coi là viết theo phe Khí Tông – thiên về cảm xúc - để phân biệt với thơ viết theo phe Kiếm Tông – thiên về cái đẹp của câu chữ, chú trọng ngôn ngữ, hình tượng và các biện pháp tu từ.

Nếu tác giả phấn khích, cao hứng thì trong bài thơ Khí Tông cảm xúc nương theo dòng chảy của tứ thơ sẽ tích tụ và lớn mạnh nhanh chóng. Cảm xúc càng mạnh, lý trí càng yếu. Lý trí bị lấn át đến một mức nào đó cảm xúc tầng 3 sẽ xuất hiện. Khi lý trí bỏ chạy biệt tăm, cảm xúc độc chiếm khung cảnh của bài thơ, dòng chảy của tứ thơ hóa thân thành dòng cảm xúc, ta có hồn thơ.

Biện Pháp Tu Từ

Bài thơ sử dụng khá nhiều biện pháp tu từ.

1/ Ẩn dụ

     a/ “Áng văn xanh” = bài bình thơ = cánh đồng mướt xanh
     b/ Hương lúa mới: Cái mới trong thơ.
     c/ “Tuôn chảy dòng sông diệu vợi”: Hóa thân thành dòng sông để  dẫn đường chỉ hướng đi cho thơ.
     d/ “Thuyền em”: Thơ của tác giả.

2/ Nhân cách hóa: “Áng văn xanh” được chuyển hóa thành “Anh”, một người được tác giả cảm mến, yêu thích và sau cùng chị đã nguyện mãi mãi làm nhân tình. 

Đây chỉ là những biện pháp tu từ “rõ nét”. Ngoài ra, còn những câu “bóng gió” ở đoạn 1 và đoạn 3, xin phép được lướt qua để bài viết không bị “loãng”

Tìm Hiểu, Nhận Biết Tứ Thơ

Bài thơ được chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn 4 câu.

1/

Là thi sĩ, lạc vào chốn văn chương, “bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ”, làm quen với nhiều thể loại văn học, nhưng tác giả cảm thấy gần gũi, thân thiện và yêu thích nhất là những bài bình thơ. Câu:

nhưng rồi … chỉ nồng nàn với riêng anh”.

đã diễn đạt rất rõ ràng, dễ hiểu.

Hai chữ “nồng nàn” thật đắt và dễ thương, biểu lộ một sự quý mến trên mức quen biết xã giao rất nhiều. Tác giả tránh chữ “yêu” nhưng trong lòng và cách cư xử thì có vẻ như “tình đã trao”. Chữ “rồi” – có giá trị như một dấu lặng - cho biết đây không phải là sự quý mến vồ vập mà là đã qua tìm hiểu, trải nghiệm. Thời gian dài hay ngắn, tác giả không cho biết. Nhưng như thế cũng đủ để độc giả thấy được sự chín chắn của chị.

Chữ “anh” ở cuối đoạn không phải là người đàn ông bằng xương bằng thịt mà là một thể loại văn học nào đó đã được nhân cách hóa để chị kín đáo “tỏ tình”. Nếu đọc Tựa Đề rồi để ý đến bối cảnh bài thơ (là bình luận dưới một bài bình thơ trên FB), độc giả sẽ dễ dàng nhận thấy chị muốn nói đến những bài bình thơ mà chị thân mến gọi chúng là Những Áng Văn Xanh.

2/

Hai câu đầu:

Bài bình thơ như một cánh đồng mướt xanh để “em ngửa mặt hít hà hương lúa mới”. Tác giả sử dụng phép ẩn dụ. Thi sĩ nhờ những bài bình thơ để tiếp cận và thấy được cái mới trong thơ.

Hai câu sau:

Bài bình thơ hóa thân thành dòng sông tuôn chảy thẳng hướng bến bờ thi ca để thuyền em – nói rõ ra là thơ của em - theo đó mà trôi cho khỏi quên đường, lạc lối.

Chị đứng ở vị trí của một thi sĩ, nhờ kinh nghiệm làm thơ cũng như đọc và thẩm thấu hương hoa của những bài bình thơ (hoặc viết về thơ) đã “ngộ” thêm ra 2 nhiệm vụ của chúng. Đó là 1/ tìm kiếm, xiển dương cái mới trong thơ và 2/ chỉ đường để thi sĩ hướng thơ của mình đến bến bờ thi ca. (Trước đó chị đã có Mạch Nước Ngầm).

3/

Tác giả cho rằng tình của chị với những bài bình thơ thầm lặng mà chứa chan. Gặp được một bài hợp ý thì cười vang thích thú. Những cái hay, cái đẹp của bài bình thơ như ru chị vào giấc ngủ êm đềm. Do hoàn cảnh không còn tha thiết yêu đời nên chị đã hết lòng “son sắt văn chương”.

4/

Chính vì làm thơ, yêu thơ nên chị vấn vương câu chữ, lưu luyến âm vần, và nguyện từ giờ về sau “làm nhân tình” của “ những áng văn xanh”

Tóm tắt tứ thơ:

Là thi sĩ nên trong số rất nhiều thể loại văn học tác giả nặng tình nhất với những bài bình thơ (hoặc viết về lý thuyết thơ), nhờ đó chị có thể thấy được cái mới trong thơ, thấy được hướng đi để đưa thơ mình đến bến bờ thi ca. Tình yêu ngày càng sâu đậm và cuối cùng chị đã nguyện mãi mãi làm nhân tình của những “Áng Văn Xanh” đó.

Có thể nói bài thơ hơi bị “khó tiêu”. Nhưng khi độc giả đã “giải mã” hết những biện pháp tu từ và đọc lại vài lần thì theo tôi, bài thơ vừa lung linh sương khói, vừa lãng mạn và vừa sâu sắc. Chỉ riêng về mặt câu chữ và thế trận cũng đủ để một người yêu thơ như tôi, tán thưởng và khâm phục.


Tứ Thơ Độc Đáo

Nét độc đáo của bài thơ, theo tôi, là tứ thơ.  Cốt tủy của 2 bình luận bằng thơ trong khung cảnh 2 bài viết 1/ Hồn Thơ Và Cảm Xúc và 2/ Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ (PĐN) là 6 câu thơ:

Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.
(Mạch Nước Ngầm)

Anh trải rộng những cánh đồng mướt xanh
em ngửa mặt hít hà hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi
thuyền em trôi thênh thang.
(Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh)

Sáu câu thơ này có những đặc điểm:

1/ Về ý nghĩa, đề cập đến 3 nhiệm vụ của công việc bình thơ.

2/ Ngôn ngữ, hình tượng đẹp, cao sang, ẩn dụ kín kẽ, ý tứ chính xác, sâu sắc.

3/ Viết về bình thơ bằng thơ. Trao tặng độc giả những kiến thức cốt yếu về công việc bình thơ bằng phương cách “trái tim đến với trái tim” để độc giả dễ tiếp nhận hơn.

4/ Không phải bài viết của người hiểu biết về lý thuyết thơ và làm công việc bình thơ mà là “tâm tình” của người sáng tác thơ, trực tiếp đón nhận lợi ích của những bài bình thơ. Vì thế, tránh được tính chủ quan, ngự trong “tháp ngà” thường có của những nhà bình thơ.

Cảm Xúc (Tầng 1 + Tầng 2)

Cảm xúc tầng 1, đến từ câu chữ, là cảm giác thích thú, khoái trá của độc giả khi gặp được một chữ hoặc một nhóm chữ “đắt”, một hình tượng đẹp, mới lạ, lung linh, sống động, câu cú gọn gàng, trong sáng, dễ hiểu. Đặc biệt, không có những chữ, câu thừa, “vô tích sự”.

Cảm xúc tầng 2 là cảm giác thích thú, khoái trá ở cường độ mạnh hơn khi thấy thế trận của bài thơ hợp lý, dòng chảy thông thoáng, chuyển tải nội dung của tứ thơ hiệu quả, không có câu thơ, đoạn thơ “nội gián” ngược dòng chảy với tứ thơ. Độc giả cũng yêu thích cách dàn trận mới lạ miễn là mới lạ phải đồng hành với hợp lý và hiệu quả.

Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đến từ câu chữ, thế trận nên được gọi là cảm xúc nội tại của bài thơ. Nó khác với cảm xúc tầng 3 đến từ trạng thái cao hứng, nổi điên của thi sĩ – nghĩa là ở ngoài câu chữ.

Khả năng sử dụng câu chữ, thế trận được gọi là kỹ thuật thơ. Nhiều người “lịch sự” còn gọi là “tài thơ” của tác giả, dù cách gọi này dễ gây hiểu lầm.

Kỹ thuật thơ của tác giả trong Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh rất nhuyễn nên bài thơ không có lỗi kỹ thuật. Ngôn ngữ thơ đẹp một cách sang trọng. Các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân cách hóa, so sánh nối đuôi sau xuất hiện nên tứ thơ lung linh, sống động và hấp dẫn. Câu cú vững vàng, chắc nịch, không sơ hở nên nếu độc giả “giải mã” được, hiểu được ẩn ý của các biện pháp tu từ thì sẽ đến đúng bến đỗ của tứ thơ không khó lắm.

Lúc ấy, cảm giác thích thú, khoái trá của độc giả ở tầng 1 và tầng 2 rất mạnh.

Cảm Xúc Tầng 3

Đoạn 1

Bầu bạn với văn chương
em nhẹ lướt đi
bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ
nháy mắt cười
với ca dao, ngạn ngữ
nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với riêng anh

Tuy là những câu dẫn độc giả vào khung cảnh của bài thơ nhưng tác giả viết với thái độ hăm hở, hào hứng để biểu lộ tâm trạng đang nóng bỏng trong lòng mình nên đọc hết câu thứ tư: 

“nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với riêng anh”

độc giả đã cảm thấy hơi ấm của cảm xúc tầng 3 len giữa nhưng hàng kẻ thấm vào tâm hồn. Chỉ âm ấm nhưng rất rõ nét.

Đoạn 2

Anh trải rộng
những cánh đồng mướt xanh
em ngửa mặt hít hà hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi
thuyền em trôi thênh thang

Đây là đoạn chứa cả hồn cốt của bài thơ nên cảm xúc rất mạnh cả ở trong lẫn bên ngoài dòng chảy của tứ thơ. Cả 4 câu của đoạn này đều thuộc loại câu “bộc lộ” (Show) nên cảm xúc tầng 3, gặp lúc tác giả đang cao hứng, lại có trớn từ đoạn 1, dâng cao rất nhanh. Ngôn ngữ thơ cao sang, hình tượng đẹp, nên thơ, ẩn dụ tương hợp, kín kẽ nên tâm hồn của độc giả như đang bồng bềnh trên “sóng lúa” và sóng nước.

Đoạn 3

Tình mình lặng thầm mà chứa chan
em có thể cười vang
khi gặp gỡ
có thể vỗ về
ru êm vào giấcngủ
tha thiết không còn đủ với đời
em son sắt văn chương

Câu đầu của đoạn 3 “Tình mình lặng thầm mà chứa chan” là câu kể (Tell). Ba câu sau chỉ để giải thích, làm rõ nghĩa hai chữ “chứa chan”. Để làm việc đó, lý trí phải được gọi về. Với tác giả, để giải thích cho đúng, hợp lý. Với độc giả, để hiểu và chấp nhận sự giải thích đó.

Riêng câu “tha thiết không còn đủ với đời, em son sắt văn chương” lại là một câu kể khác. Độc giả như tôi đã phải bắt lý trí làm việc cật lực – bỏ cả buổi vào trang FB của chị - để tìm hiểu tại sao chị lại không còn tha thiết yêu đời mà dành hết tâm hồn “son sắt văn chương”. Tôi đã thấy, đã hiểu. Nhưng đây là vùng đất riêng tư của chị nên không tiện nói thêm.

Đối với tứ thơ thì sự giải thích của đoạn 3 làm mối tình của chị đối với “những áng văn xanh”, trước mắt độc giả, thêm phần đậm đà, tha thiết, hỗ trợ mạnh mẽ cho đoạn kết của bài thơ. Nhưng đáng tiếc, chính vì đoạn thơ này mà cảm xúc tầng 3 đang nóng bỗng nguội hẳn đi.  

Đoạn 4

Câu chữ vấn vương
âm vần lưu luyến
và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của những áng văn xanh.

Những câu bộc lộ tâm trạng (Show) tái xuất hiện. Cảm xúc tầng 3 đã ấm lại.
Đến câu cuối, tứ thơ đã đến đích ở đỉnh điểm (về ý tứ), cảm xúc của tầng 3 đang nóng lên thì bài thơ đã kết thúc.

Tóm lại, tác giả làm thơ trong lúc tâm hồn phấn chấn, cao hứng, cảm xúc tầng 3 biểu hiện rõ nét ở 2 đoạn đầu. Tuy nhiên, chưa đủ để hồn thơ xuất hiện.

Sau đây là mấy lý do:

1/ Đoạn 3 mời gọi lý trí về để nghe phân trần, lý giải. Có lý trí, cảm xúc - đặc biệt là cảm xúc tầng 3 - tự động xẹp xuống.

2/ Với bài thơ 16 câu, 117 chữ, viết theo lối Khí Tông mà sử dụng biện pháp tu từ như liệt kê ở trên là hơi dầy. Với việc biểu hiện tứ thơ thì rất hiệu quả, rất đẹp, rất hay, nhưng chính vì thế đã làm vướng víu dòng chảy cảm xúc, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của cảm xúc tầng 3.

3/ Đỉnh điểm (điểm nhấn) của tứ thơ ở cuối bài. Đỉnh điểm của cảm xúc tầng 3 ở cuối đoạn 2. Bài thơ không kết thúc ở cao trào.

Góp Ý Của Một Anh Bạn

Bài viết gần xong thì một anh bạn yêu văn chương ở xa đến chơi. Tôi đưa bản thảo cho anh đọc và anh đã góp ý 2 điểm:

1/ Nhóm chữ “và từ giờ”.  

Trước hết, xin nhắc lại nhân vật “Anh” chỉ là “những áng văn xanh” hay “những bài bình thơ”, do “nhân cách hóa” mà có mặt, chứ không phải một nam tử hán bằng xương bằng thịt.

Ngay ở cuối đoạn 1 và rồi sang cả đoạn 2 tình của Nàng với “Anh” đã rất sâu đậm:

“nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với riêng anh”

Anh trải rộng
những cánh đồng mướt xanh
em ngửa mặt hít hà hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi
thuyền em trôi thênh thang

Tôi nghĩ với ngôn ngữ thơ như thế Nàng đã yêu và cho “Anh” tất cả, đâu còn giữ lại tý gì. Nhưng đến cuối bài - đỉnh điểm và cũng là điểm nhấn của tứ thơ – khối tình đó chỉ tăng đến mức:

và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của những áng văn xanh”

nghĩa là chỉ cho “Anh” thêm chút danh hão chứ có gì khác đâu?  Như vậy độ gia tăng tình cảm của Nàng với “Anh” từ lúc đầu cho đến cuối bài không đáng kể. Nếu vẽ đường biểu diễn thì đó chỉ là một đường thẳng gần như nằm ngang, chỉ hơi chếch lên một tý ở đoạn cuối. Tôi cho đó là điểm yếu quan trọng của bài thơ.

Anh bạn tôi đứng về phía tác giả, giải thích và biện hộ như sau:   

Ở phần đầu bài thơ, dù thái độ của Nàng đã “nồng nàn với riêng Anh”, rồi trong cả đoạn 2 đã say sưa, mê mẩn cùng Anh trong “những cánh đồng mướt xanh” và “dòng sông diệu vợi”, nhưng khi đã “nguyện” làm nhân tình của Anh thì lời nguyện đó đã đưa tình bước lên một tầng bậc mới, cao hơn trước nhiều. Hơn nữa, nhóm chữ “và từ giờ” đã hứa hẹn một tương lai lâu dài, mãi mãi, suốt đời.

Khi nữ ca sĩ nào đó hát câu “Em hứa yêu anh trọn một đời” (1) khán thính giả sẽ mường tượng một mối tình đằm thắm, lâu dài, mãi mãi. Hai câu thơ

“và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của những áng văn xanh

còn nặng tình hơn câu hát đó nữa. Lý do: Chữ “nguyện” còn mạnh hơn chữ “hứa” một bậc.

Như vậy, có thể nói độ gia tăng của khối tình của Nàng với “Anh” từ đầu bài thơ đến hai câu kết là rất đáng kể. Anh đề nghị:

“Nếu không khen thì cũng đừng nên đưa vào những lời ‘khó nghe’ kẻo lại bị ‘búa rìu dư luận’. Mà chỗ này người ta ‘búa’ thì khó đỡ”.

Quả thật, tôi thấy sức mạnh của chữ “nguyện” nhưng lại “quên” nhóm chữ “và từ giờ” nên đã trách oan tác giả.

“Nói phải thì củ cải cũng phải nghe”. Tôi đã nghe và đã sửa. Cám ơn anh bạn.

2/ Về đoạn 3 của bài thơ

Anh bạn tôi cho rằng tác giả viết bài thơ là để bày tỏ mối tình thắm thiết của Nàng đối với “những áng văn xanh”. Và theo anh, “đoạn 3 đã hỗ trợ đắc lực cho công việc đó; có công lớn như vậy mà còn bị ‘bắt lỗi’ là không đúng”.

Tôi biết chỗ dựa để anh và tôi nhận xét, đánh giá một bài thơ, một đoạn thơ, một câu thơ hay hoặc không hay, khác nhau. Anh dựa vào sự hiệu quả trong việc giúp biểu hiện tứ thơ. Tôi, ngoài điểm đó, còn nhìn theo hướng đi của bài thơ đến bến bờ thi ca.

Đối với những bài thơ tác giả chọn chữ so vần trong lúc “tỉnh như sáo” thì không nói làm gì. Với những bài ấy thì mọi đôi mắt phải nhìn chăm chú vào tứ thơ là đúng. Nhưng với những bài thơ có xuất hiện cảm xúc tầng 3 thì phải theo dõi dòng chảy cảm xúc, xem nó có thông thoáng để cảm xúc tầng 3 lớn mạnh hay không? Có cơ hội để có hồn thơ hay không?

Tôi biết, về mặt ý tứ, đoạn 3 của NTCNAVX là một đoạn thơ hay. Nhưng về mặt khơi dòng để cảm xúc tầng 3 tuôn chảy thì nó lại là điểm tụ hội của lý trí, là vật cản. Chính nó làm mất cơ hội để hình thành hồn thơ.

Ưu Điểm Của Bài Thơ

     a/ Vẫn dựa vào khung Thơ Mới nhưng số chữ trong câu thay đổi tùy hứng với biên độ rộng – câu ngắn nhất 5 chữ, câu dài nhất 12 chữ, nhịp điệu thay đổi, không lập đi lập lại, tính nhạc cao.
     b/ Vần liên tiếp đều đặn, 16 câu, 7 cặp vần, nhưng do tính nhạc cao nên vẫn vừa độ ngọt, không có hội chứng nhàm chán vần.
     c/ Ngôn ngữ cao sang, chắt lọc, hình tượng đẹp, gợi cảm.
     d/ Bài thơ nhất khí liền mạch, tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng.
     e/ Tứ thơ tuyệt vời.
     f/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh.
     g/ Có cảm xúc tầng 3 khá “nóng” ở cuối đoạn 2, nhưng nguội dần từ đầu đoạn 3.

Khuyết Điểm

Có cảm xúc tầng 3 nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. (Đã giải thích ở mục Cảm Xúc Tầng 3)

Kết Luận

Ba nhiệm vụ của nhà bình thơ trong Mạch Nước Ngầm và Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh của Vân Anh đâu đó đã có người nhắc đến, bàn đến. Chị không phải là người đầu tiên nghĩ ra những ý tưởng đầy tính học thuật ấy. Nhưng với tâm thế của người thọ nhận, gói chúng vào 2 bài thơ, nén chúng vào 6 câu thơ vừa cô đọng, đẹp, sâu sắc, lại vừa lãng mạn, thấm đẫm chất tình như chị, thì theo tôi, xưa nay chỉ có một.

Chị đã tặng cho người yêu thơ một món quà ý nghĩa. Riêng đối với những người bình thơ như chúng tôi, trước sau, chị đã trao tận tay 3 đóa hoa hồng. Một, từ Mạch Nước Ngầm và hai, từ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh.

Mai mốt đây, bàn đến đề tài bình thơ, những nhà phê bình, đặc biệt là giới trẻ, để trích dẫn, khỏi phải tìm tòi lượm lặt mỗi nơi một đoạn văn xuôi khô cứng. Trước mắt họ, những đóa hoa của Vân Anh sẽ hiện ra mời gọi. Mềm mại, dễ thương – và vẫn như ngày đầu – nguyên vẹn một màu hồng tươi thắm.

  

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH

1/ Một Đời Yêu Anh (Em), Trần Thiện Thanh.