BÌNH THƠ
KHÔNG BÀN THI PHÁP
Thi
Pháp Là Gì?
Sau đây là vài định nghĩa Thi Pháp đáng chú ý:
1/
Định nghĩa theo kiểu chiết tự của
người Việt (Tự điển Việt – Việt):
Phương pháp, quy tắc làm thơ.
2/
The art of writing poetry.
The study of linguistic techniques in
poetry or literature.
tạm dịch:
Nghê thuật, phương cách sáng tác thơ.
Ngành nghiên cứu về kỹ thuật sử dụng
ngôn ngữ trong thơ hoặc văn chương.
3/
Literary criticism treating of the
nature and laws of poetry.
Ngành phê bình văn học chuyên về bản chất
và luật thơ.
4/
Poetics is the theory of literary forms
and literary discourse. It may refer specifically to the theory of poetry,
although some speakers use the term so broadly as to denote the concept of
"theory" itself.
Thi Pháp là
lý thuyết về các hình thức văn chương và nghị luận văn
học. Nó có thể đề cập cụ thể đến lý thuyết thơ, mặc
dù một số người dùng thuật ngữ này với nghĩa rộng để diễn đạt chính ý niệm về
lý thuyết.
Thi pháp nếu hiểu theo nghĩa hẹp (“thi” là thi
ca chứ không phải văn học) là phương pháp, quy tắc làm thơ; cũng có thể hiểu là
luật thơ.
Bàn đến thi pháp là bàn đến hình thức của bài
thơ - cách sắp xếp con chữ, sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị
nghệ thuật của bài thơ.
Đối với thơ, theo tôi, thi pháp có thể định
nghĩa như sau:
5/
Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm
thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết
các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến
độc giả.
Các phương tiện thẩm mỹ thường thấy trong thơ
là vần, nhịp điệu, số chữ trong câu, số câu trong bài, các biện pháp tu từ …
Ngoài ra, trong
ebook Toàn Cảnh Thi Pháp Học của GS/TS Trần Đình Sử có hai định nghĩa thi pháp
học đáng chú ý:
1/ V.
Girmunski : “Thi pháp học là khoa học
nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật.”
Định nghĩa này
quá rộng nhắm vào nhiệm vụ của thi pháp học. (1)
2/ Viacheslav
Ivanov: “Thi pháp học là khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống
các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó. (1)
Định nghĩa của
Viacheslav Ivanov tuy có cụ thể hơn một tý nhưng cũng nói đến “tác phẩm văn học”
nghĩa là vùng phủ sóng cũng vượt quá phạm vi của bài viết này.
Ảnh
Hưởng Của Thi Pháp Đối Với Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ
1/ Số Chữ Trong Câu:
Ảnh hưởng đến nhịp điệu của
bài thơ.
Số chữ trong câu cố định sẽ dẫn đến nhịp điệu
đều đặn, nhàm chán.
Số chữ trong câu thay đổi sẽ tạo nhịp điệu
khác lạ, giảm bớt cảm giác nhàm chán khi đọc thơ, nhất là bài thơ dài. Biên độ
thay đổi càng rộng nhịp điệu càng khác lạ, đọc thơ càng có cảm giác thích thú,
khoan khoái. Hơn nữa, việc thay đổi số chữ trong câu chứng tỏ tác giả đã phần
nào thoát khỏi những ràng buộc của thể thơ, biểu lộ phong thái ung dung, thoải
mái - rất cần thiết để nhen nhúm hồn thơ.
2/ Số Câu Trong Bài:
Thoải mái, tùy tiện nhưng
đừng quá ngắn.
Xin trích lời một anh bạn trong buổi nhậu (đã
thay đổi chút ít cho phù hợp với khung cảnh bài viết):
“Bài thơ ngắn quá (4 câu hoặc ít hơn) không
đủ để tác giả bày tỏ tâm trạng của mình, không đủ để cảm xúc lớn mạnh tạo thành
cao trào. Nếu thành công, nó như một nụ hôn phớt trên má, tạo ra chút xao động
trong lòng người đọc nhạy cảm. Nếu thất bại, nó cho cảm giác bực mình như làm
tình với anh chàng ‘sậu tinh’, chưa đi đến chợ đã hết tiền, mệt người mà chẳng
nên cơm cháo gì”.
2/ Vần:
Với thi sĩ, vần giúp nối kết những
ý tưởng, sự kiện, những mảnh tâm tình thành một xâu chuỗi khiến bài thơ liền mạch,
nhất khí. Trong bài thơ có vần (ngoại trừ thể thơ mới trường thiên từng đoạn 4
câu) tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng, lớn mạnh nhanh chóng nhờ sóng sau dồn
sóng trước. Khi thi sĩ đang cao hứng, “lên cơn”, dòng cảm xúc liền mạch, trôi
nhanh đó giúp tứ thơ tuôn trào, không có “thời gian chết” để lý trí xuất hiện,
tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành.
Với độc giả, vần là thuốc
dẫn, là thứ “dầu bôi trơn” giúp thông điệp của bài thơ theo dòng cảm xúc trôi
nhanh vào hồn. Nhờ thứ “dầu bôi trơn” ấy độc giả “cảm” được tâm tình của thi sĩ
một cách dễ dàng hơn, (có thể) không phải trải qua tiến trình suy nghĩ, tránh
được (hoặc giảm thiểu) sự chen vào can thiệp của lý trí để cuối cùng có thể bắt
gặp hồn thơ (nếu có). (2)
Nhưng vần là con dao hai
lưỡi:
a/
Quá ngọt: Sẽ có hội chứng nhàm chán vần, đọc nghe rất ngán - nhất là khi tứ thơ
không thẳng hướng tới đích mà cứ cà kê dê ngỗng chạy lòng vòng.
b/
Quá nhạt hoặc không vần: Trúc trắc, khó đọc, dòng chảy của tứ thơ không trơn,
những khoảng ngắn ngừng nghỉ sẽ là cơ hội để lý trí xuất hiện.
3/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ
a/ Đứt
đoạn, phân mảnh: Tứ thơ phân tán, mỗi đọan là một ý nhỏ, cảm xúc chưa kịp tích
tụ đã tan, cực khó có hồn thơ
b/ Nhất
khí liền mạch: Tứ thơ chảy thành dòng, ý này nối kết với ý kia cho đến hết bài.
Nếu thi sĩ cao hứng và thế trận bài thơ hợp lý sẽ có cơ hội có cảm xúc tầng 3,
có cơ hội tạo được cao trào, có cơ hội có hồn thơ.
c/
Tốc độ của dòng chảy càng nhanh, hơi thơ càng mạnh, cảm xúc càng dạt dào.
4/ Cảm Xúc:
Mức độ cảm xúc có được là kết quả
của sự phối hợp các phương tiện thẩm mỹ của bài thơ mà giới phê bình gọi là thi
pháp.
a/
Cảm xúc tầng 1: Cảm giác khoan khoái, sung sướng khi gặp được một chữ “đắt”, một
cụm từ sang, đẹp, một biện pháp tu từ độc đáo hoặc một câu thơ hay. (Kỹ thuật cá
nhân của cầu thủ)
b/
Cảm xúc tầng 2: Cảm giác sung sướng khi thấy sự kết nối các câu, các ý, các đoạn
thành một thế trận liền lạc, hợp lý, hiệu quả để đưa tứ thơ đến “bến đỗ”. (Đấu
pháp toàn đội)
c/
Cảm xúc tầng 3: Cảm giác ngây ngất khi “bắt” được cái hơi nóng cảm xúc, không
phải từ các con chữ của bài thơ mà từ đâu đó giữa những hàng kẻ. Cái hơi nóng cảm
xúc đó được “thổi” vào bài thơ do tâm thái cao hứng, nổi điên, lạc thần trí của
tác giả. Đây là loại cảm xúc cho độc giả cái cảm giác sảng khoái nhất, “đã” nhất.
Nếu cảm xúc tầng 3 mạnh đến mức chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước lên đến
đỉnh điểm, bài thơ có cao trào, hồn thơ xuất hiện. (Trận đấu có hồn) Lúc đó “cái
tôi văn hóa” của tác giả đã trốn mất để “cái tôi đích thực” lộ diện, lời thơ là
những tiếng lòng chân thật từ một Con Người (viết hoa). Bài thơ đã đạt được phần
thưởng cao quý nhất - bước vào “Bến Bờ Thi Ca”.
Khuyết
Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”
THỀM XƯA EM ĐỢI NGƯỜI VỀ
Em
đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt
bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly
phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt
hoài mong lạc mười ngón tay đan.
Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm
giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc
điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném
niềm vui như chiếc lá bay vèo.
Mắt ngân ngấn “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi
tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà:
“… rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ
trời tình ai thổi tắt trăng khuya.
Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa
vào đâu ấm áp một bờ vai?
em
cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu
muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.
Người
gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩn
nửa
trên tay em bồng nắng về rừng
như
thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe
con chim góa bụa hót rưng rưng.
Em
khờ khạo xới lên miền cổ tích
như
mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi
yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai
cam tâm hờ hững tự khi nào?
HÀ NHỮ UYÊN
HÀ NHỮ UYÊN
(Bài này Châu Thạch đã viết lời bình với tựa
“Cảm Nhận ‘Thềm Xưa Em Đợi Người Về’ – Thơ Hà Nhữ Uyên” nhưng anh đã chỉ bình tán
ý tứ mà không bàn thi pháp. Độc giả có thể đọc bài bình của Châu Thạch theo
link sau đây: http://www.bongtram.com/2016/03/cam-nhan-them-xua-em-oi-nguoi-ve-tho-ha.html
1/ Nhịp Điệu:
Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc
lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ
mới nên tâm thế, phong thái không được tự do.
2/ Vần:
Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn
12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng
nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại
còn chơi cả yêu vận (vần lưng):
Chữ “nắng” (câu 2 đoạn 1) vần với “lắng” (câu
1 đoạn 1)
Chữ “nối” (câu 3 đoạn 3) vần với “thổi” (câu 4
đoạn 3)
Chữ “tóc” (câu 1 đoạn 4) vần với “áp” (câu 2
đoạn 4)
Chữ “ngẩn” (câu 1 đoạn 5) vần với “nắng” (câu
2 đoạn 5)
Và điệp vận (vần “ắng”) không cần thiết: Câu
1, câu 3 đoạn 1 và câu 1, câu 3 đoạn 2
Nhìn cách gieo vần của bài thơ mà thấy
“thương” cho thái độ phục tùng của tác giả đối với quy luật gieo vần. Một lần nữa
lại biểu hiện phong thái e dè lệ thuộc.
3/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ:
Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi
đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần
nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy.
4/ Cảm Xúc:
Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại
đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo
cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở
tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với
vóc dáng này TXEĐNV chắc chắn không thể có hồn thơ.
Bình thơ mà không bàn đến thi pháp nên Châu Thạch
đã bỏ qua nhiều khuyết điểm và đã nâng giá trị của bài thơ lên một cách bất
công. Tệ hại hơn, anh đã ngợi khen quá lố một bài thơ có những điểm yếu cơ bản,
thổi vào hồn tác giả một niềm tự hào thiếu căn cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn.
Đôi
Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”
Tôi hoàn toàn không quen biết anh Hà Nhữ Uyên và
bài thơ Thềm Xưa Em Đợi Người Về tôi chỉ mới “gặp” lần đầu khi viết bài này.
Bài thơ của anh những nét đẹp về ngôn ngữ, hình tượng, ý tứ thì nhà phê bình
Châu Thạch đã phân tích đầy đủ, có phần ưu ái. Tôi chỉ bàn đến những cái “sót”
của anh Châu Thạch khi anh bình thơ mà phớt lờ thi pháp – “cách sắp xếp con chữ,
sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thật của bài thơ”.
Mỗi nhà phê bình đều có “ý đồ” riêng trong bài
viết của mình. Trước tiên, bài thơ của anh Hà Nhữ Uyên rất tình cờ lọt vào tầm
ngắm của tôi. Đọc kỹ, thấy nó là một thí dụ minh họa rất hợp với mục tiêu của
bài viết. Tôi biết bị một cặp mắt nhìn soi mói vào khuyết điểm bài thơ của mình
tác giả nào cũng có cảm giác khó chịu, nhưng xin anh Hà Nhữ Uyên hiểu và thông
cảm cho. Tôi chọn bài của anh vì tiện đường đi tìm cái đẹp của Thi Ca chứ không
vì ác cảm cá nhân.
Thuở còn ở Trung Học, khi được hỏi “Làm thơ nên chọn thể thơ nào?”, thầy giáo dậy Việt Văn có lần nói với tôi
“Cái đó tùy tạng, tùy sở thích của mỗi người; trên trang thơ của mình thi sĩ được toàn quyền tự do chọn lựa.” Sau nhiều năm tìm vui với thơ, tôi lại được các bạn trẻ hỏi cái câu hỏi tôi đã hỏi thầy giáo tôi ngày xưa. Và vì dòng đời thay đổi, cách nhìn nhận thi ca cũng đổi thay; câu trả lời của tôi cũng khác câu trả lời của ông thầy mà tôi hết lòng yêu mến.
Thuở còn ở Trung Học, khi được hỏi “Làm thơ nên chọn thể thơ nào?”, thầy giáo dậy Việt Văn có lần nói với tôi
“Cái đó tùy tạng, tùy sở thích của mỗi người; trên trang thơ của mình thi sĩ được toàn quyền tự do chọn lựa.” Sau nhiều năm tìm vui với thơ, tôi lại được các bạn trẻ hỏi cái câu hỏi tôi đã hỏi thầy giáo tôi ngày xưa. Và vì dòng đời thay đổi, cách nhìn nhận thi ca cũng đổi thay; câu trả lời của tôi cũng khác câu trả lời của ông thầy mà tôi hết lòng yêu mến.
“Hãy chọn thể thơ thông thoáng, không bị trói
buộc bởi luật lệ khắt khe, không phân mảnh đứt đoạn, để tứ thơ và cảm xúc của
mình có thể chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước, có cơ hội tạo cao trào để
hồn thơ xuất hiện.”
Rất mong anh Hà Nhữ Uyên coi câu trả lời ấy như một đề nghị chân tình.
Rất mong anh Hà Nhữ Uyên coi câu trả lời ấy như một đề nghị chân tình.
Ưu
Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Quê Nghèo”:
QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Bài này nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình
với tựa Quê Nghèo – Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài
thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo – Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống
như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp. Độc giả có
thể đọc cả hai bài bình thơ theo hai cái links sau đây:
1/ Nhịp Điệu:
Số câu trong bài không bị bó buộc,
viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên
nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của
tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả
ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong
bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.
2/ Vần:
Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý
gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự
động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên.
Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn
trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Và:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Không biết do tác giả có tài hay do may mắn.
Tôi nghĩ có lẽ cả hai.
3/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ:
Hình ảnh, sự kiện nối
tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo
“Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã
có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm Xúc:
Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ
câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch
lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu
nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ –
nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và
do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.
Đôi
Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”
Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân
Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp,
anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu
thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một
bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến
bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước.
Hôm nay nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật
tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm,
hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để
bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá
nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du,
không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành
dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng.
Mặc dầu bài
thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều
không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng
quên.
Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã
có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi
nói đến ở bài 2 – anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn
phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu
pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn
cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ).
Nếu anh tiếp tục
“thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu,
không “xì” ra không được, lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ
hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.
Thơ
Đến Từ Đâu?
Khi làm thơ thi sĩ sẽ ở 1 trong 3 tâm thế (trạng
thái của tâm) sau đây:
1/ Muốn phân tích phải trái, nói lý lẽ với độc
giả (Reason With Them)
Với tâm thế ấy thi sĩ sẽ viết ra bài vè như
khá nhiều những “bài thơ” của Thái Bá Tân. Ý tưởng mạch lạc, có vần điệu nhưng
chỉ là sản phẩm của lý trí, hoàn toàn vắng bóng cảm xúc.
2/ Tâm sự, chia sẻ cảm xúc với độc giả (Share
feelings with them)
Đại đa số thơ chúng ta thường đọc thuộc loại
này. Thơ có cảm xúc nhưng cũng có sự kiểm soát của lý trí.
3/ Xả, trút cái khối yêu thương, thù hận, uẩn ức
… chất chứa trong lòng. (Get it off your chest)
Lúc ấy thi sĩ đã nổi cơn điên, lạc thần trí;
ngài đã vứt bỏ chiếc áo “cái tôi văn hóa” để trở về với “cái tôi đích thực” của
mình. Trước mắt ngài sẽ chẳng có độc giả; ngài sẽ chẳng viết cho ai cả; ngài chỉ
muốn nói ra, viết ra cho nhẹ lòng, nhẹ bụng. Nếu kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn đến
một mức nào đó, bài thơ viết ra sẽ rất nhiều cơ hội có hồn.
Bình
Thơ Không Bàn Thi Pháp - Đầu Mối Của Bất Công.
Bình thơ không
bàn thi pháp chắc chắn sẽ dẫn đến bất công. Người bình chỉ chú ý đến ý tứ, còn
kỹ thuật thơ thì “ngoảnh mặt làm ngơ”. Tác giả bài thơ đã có “tay nghề” cao hay
vẫn còn lẹt đẹt ở phía sau cũng đều được đánh giá giống nhau, cá mè một lứa.
Người may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca thì
vì mang tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm,
khuyến khích nên vẫn cứ ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một
trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc. Người vẫn còn lẹt đẹt - nhưng lại không biết
mình ở phía sau - vẫn cứ tiếp tục đi, lắm lúc còn ưỡn ngực tự hào dù thực sự đang
quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội.
Với thơ, cảm xúc gần như là tất cả, thông điệp
chỉ là thứ yếu. Dĩ nhiên, tứ thơ hay cũng góp phần nâng giá trị của bài thơ nhưng
chính cảm xúc mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”, mới giúp bài thơ chiếm
một vị trí trang trọng trong lòng độc giả, mới tạo nên sự cách biệt giữa một
tuyệt tác thi ca với những bài thơ làng nhàng.
Muốn “đo” khối lượng cảm xúc của một bài thơ
nhà phê bình trước hết phải “cảm đoán” xem thi sĩ viết bài thơ với tâm thế nào.
Nếu ngài “trút bầu tâm sự” lên trang giấy thì bài thơ dễ có nhiều cảm xúc và có
cơ hội đạt danh hiệu cao quý: “Bài Thơ Có Hồn”. Đến đây nhà phê bình phải dùng
chiêu thi pháp để tìm kết quả. Vần, nhịp điệu và các phương tiên thẩm mỹ khác sẽ
được đưa lên bàn mổ để xem có nối kết các con chữ thành một thế trận hoàn hảo và
có tạo được cao trào không?
Bởi vậy nếu không bàn thi pháp thì sẽ rất khó
nhận biết cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp đến từ trạng thái cao hứng của
thi sĩ – và đỉnh điểm của nó là hồn thơ. Không làm được điều đó, theo tôi, bài
bình thơ thất bại.
Kết Luận
Thưa các nhà
bình thơ Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng,
Thưa tất cả những
nhà phê bình thuộc trường phái Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp,
Với lối bình
thơ ấy quý vị đã đối xử với bài thơ như một đoạn văn không hơn, không kém. Tâm
của quý vị có thể chính trực nhưng lời bình của quý vị lại thiên vị, bất công,
thơ hay thơ dở đánh lộn sòng.
Bao nhiêu những tố chất để làm nên “tính thơ” quý
vị đều phớt lờ. Quý vị đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình. Những
phân tích, bàn tán hoa mỹ của quý vị chỉ là những cánh hoa phủ lên một “cái xác
không hồn”, một bài thơ không có “tính thơ”.
Xin những người
yêu thơ hãy lên tiếng để cứu thơ. Nếu không, một ngày nào đó thơ – cái thứ thơ
mà chúng ta trân trọng yêu quý - sẽ không còn nữa.
Phạm Đức Nhì
2/ Một Cách Nhìn Khác Về Vai Trò Của Vần Trong
Thơ, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/02/mot-cach-nhin-khac-ve-vai-tro-cua-van.html
Vô cùng xuất sắc!. Còn một vài hạt cát do lỡ tay, bởi thơ Việt Nam 4 dòng là một câu song thất lục bát ,với Tàu là một bài tứ tuyệt , hay tuyệt cú .dòng thơ 4 câu rất hay và Tàu qua thơ Đường đã để lại các bản văn kinh điển .Không sao .Đó chỉ là hạt cát ,không phải là hạt sạn . Định nghĩa THƠ Việt nay đã quá rõ ràng . Quan điểm rõ ràng ! -
Trả lờiXóaTút thêm chút nữa đi anh PHẠM ĐỨC NHÌ. TÚT để bản văn này đi vào sách giáo khoa .
Thi pháp học nay là ngành rất mới từ khi những sách dịch bắt đầu từ cánh du học sinh từ LIÊN XÔ cũ trở về . Về lý thuyết Thi pháp học thì Liên xô có lẽ là BẬC THẦY đối với người trong nước sau 75 , do từ sựu giới thiệu của Phó tiến sĩ GS Trần Đình Sử cho dù trước đây Đặng Tiến đã có xử dụng thế nhưng còn rất “ lãng đãng “ . Rat vui nay được đọc từ có cái nhìn ĐÚC KẾT từ mọt người MỸ gốc Việt như bác PHẠM nhà mình thật là một điều quý hóa ,bởi ngắn gon và minh bạch qua ví dụ dẫn theo sau .
Cám ơn BÁC PHẠM .
Bác GIỎI VÔ CÙNG !
Thân ái
Bài viết thật ý nghĩa vô cùng đối với người đọc thơ và làm thơ.
Xóa