Thứ Năm, 30 tháng 3, 2017

BÀN THÊM VỀ NHẬN DIỆN THƠ


                      BÀN THÊM VỀ NHẬN DIỆN THƠ

 

Trả Lời Hai Câu Hỏi

Sau khi đọc Nhận Diện Thơ, một bạn đọc tên Nguyễn Huệ có đặt câu hỏi trên Facebook như sau:

Xin ý kiến của Nhi Pham và bạn đọc về bài thơ của HỒ CHÍ MINH: HÒN ĐÁ. Nếu rạch ròi như cách phân tích trên thì phải chăng bài thơ HÒN ĐÁ của Bác chỉ là một loại văn vần?

HÒN ĐÁ


Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Chỉ một người,
Nhắc không đặng.

Hòn đá nặng,
Hòn đá bền,
Chỉ ít người,
Nhắc không lên.

Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Nhiều người nhắc,
Nhắc lên đặng.

Biết đồng sức,
Biết đồng lòng,
Việc gì khó,
Làm cũng xong.


Đánh Nhật, Pháp,
Giành tự do,
Là việc khó,
Là việc to.

Nếu chúng ta
Biết đồng lòng
Thì việc đó
Quyết thành công.
(Đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 123, 21/4/1942)

 

Để trả lời anh Nguyễn Huệ tôi xin được dẫn anh đi lòng vòng một chút.

Chúng ta thử đọc hai câu:

Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan

(Hồ Chí Minh)

Ý tưởng đúng đắn của một bậc trưởng thượng, xứng đáng để các em nhỏ học hỏi, ứng xử, nhưng hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Vì thế không thể gọi là thơ.

Còn hai câu:

Nhìn con học giỏi hiền ngoan

Lòng cha cảm thấy ngập tràn sướng vui

(PĐN chế)

Cha đã bước vào khung cảnh bài thơ và đã có cảm xúc. Đích thị là thơ.

Trồng trầu thì phải khai mương

Làm trai hai vợ phải thương cho đồng

(Ca dao Nam Bộ)

Một người từng trải, nhiều kinh nghiệm về chuyện đa thê đã đưa ra lời khuyên đối với những anh mới học đòi Phòng Nhất, Phòng Nhì. Đó chỉ là sản phẩm của lý trí, không có cảm xúc.

Còn mấy câu:

Bà lớn ở nhà đang trông

Nhìn em “quá đã” qua không muốn về

Thôi đành mặc người cười chê

(PĐN chế)

Cảm xúc đã dạt dào - mê bà nhỏ đến mức quên cả lẽ công bằng của người đàn ông hai vợ (theo câu ca dao). Đã có thơ.

Hy vọng đọc xong hai thí dụ này anh Nguyễn Huệ có thể tự trả lời câu hỏi của mình. Nhưng nếu anh muốn trực tiếp nghe câu trả lời của tôi thì xin đọc đoạn dưới đây.

Bài Hòn Đá của ông Hồ Chí Minh chỉ là một cách dùng ẩn dụ để dạy dỗ hậu bối, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, là một loại văn vần, không phải là thơ.

 

Một độc giả khác, anh Nguyenphong Bui viết:

“Bài viết công phu. Vãn sanh ngưỡng mộ
Phiền ông xem giùm mấy câu sau đây có được gọi là thơ không?
Cám ơn ông.”

BỤP
Tính tình tang, tích tịch tang.
"Bụp"
Dây đàn đứt...
Tiếng "Tang" vẫn còn.
Đàn hay không níu nỗi hồn.

Dù anh Nguyencong Bui là người đàn hay người nghe đàn, hồn anh cũng thả theo dòng nhạc, dù chỉ là “tính tình tang, tích tịch tang”. Khi dây đàn đứt nỗi buồn ít nhiều đã tích tụ trong anh, và “Tiếng Tang vẫn còn” khiến anh đã phải thốt lên: “Đàn hay không níu nổi hồn” Cảm xúc đã có. Bài “BỤP” đã có thể gọi là thơ.

Còn đoạn dưới đây:

 

Tiếng đàn có rộn ràng, vui nhộn

cũng không thể làm tươi xanh

những mảnh hồn đang khô cằn

héo úa.

 

chỉ là một phát biểu (statement) chung chung về tác dụng của tiếng đàn. Dù rõ ràng là có vần điệu nhưng tác giả không bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” mà nói bằng kiến thức, sự hiểu biết của mình, hoàn toàn không có cảm xúc. Đây không phải là thơ.

 

Khác Biệt Giữa Kệ, Thơ Thiền Và Thơ Thế Tục

 

1/ Kệ: là một cách giải thích Kinh bằng văn vần, không cảm xúc.

2/ Thơ thiền : có cảm xúc nhưng cảm xúc đó chỉ là “niềm vui” khi thấy mình đã thoát vòng tục lụy, tâm không vướng mắc điều gì, không có tư ý, tư dục. Nói có vẻ “đạo” một tý là lúc ấy, trong khung cảnh của bài thơ ấy, cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ.

3/ Thơ thế tục: cảm xúc là thứ Tình phát xuất từ Thất Tình, Lục Dục của người đời.

Sau đây là một số bài Kệ, Thơ Thiền và Thơ Thế Tục đặt cạnh nhau để bạn đọc dễ phân biệt.

 

 

Trăng Non, Sơ Tam Sơ Tứ Và Chơi Trăng Lên

 

 

TRĂNG NON

 

Vũ trụ bao la rất nhiệm mầu

Chân không diệu hữu thật thâm sâu

Trùng trùng duyên khởi không gì mất

Trăng khuyết lại tròn - đời biển dâu

(Minh Lương Trương Minh Sung,

         via yahoogroups.com )

 

Bài Trăng Non viết về trùng trùng duyên khởi của vạn vật, mất rồi lại có, như trăng khuyết lại tròn, biển biến thành nương dâu. Cả 4 câu, 28 chữ đều phát xuất từ bề mặt ý thức. Chính vì chỉ có “lý” mà thiếu “sự”, nên không thể gọi là thơ. Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong việc biểu lộ kiến thức của mình về đạo pháp, đem cái hạt giống đạo pháp đó truyền đạt cho mọi người. Đây có thể gọi là một bài kệ, một chiếc cầu để đưa người đời đến với những lời dạy cao siêu, thâm thúy của đức Phật (kinh).

 

SƠ TAM SƠ TỨ

 

Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không

     (hoasontrang.us)

Mồng ba mồng bốn trăng mờ

Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không

      (Trần Trọng San dịch)

 

Ở đây sư ông và chú tiểu chùa Hàn San đã thực sự đứng trước và thưởng thức vẻ đẹp của cảnh trăng non. Tâm đã đối cảnh. Cảm xúc dâng đầy. Sư ông lặng ngắm vẻ đẹp của trăng trên bầu trời. Chú tiểu đứng ở vị trí khác, có góc nhìn khác, thấy được phần chìm đáy nước của mặt trăng. Cả 4 câu gộp lại thành một bài thơ thật đẹp, không có tư ý, tư dục.

 

Cùng một cảnh (trăng non) nhưng bài Trăng Non chỉ là kệ, còn Sơ Tam Sơ Tứ là thơ. Khác nhau ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc (nhưng không có tư ý, tư dục).

 

CHƠI LÊN TRĂNG

……………………….

Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.

…………………….

(Hàn Mặc Tử)

Còn Chơi Lên Trăng của Hàn Mặc Tử thì tràn cảm xúc và tư ý, tư dục nên là Thơ Thế Tục.

Phong Lai Sơ Trúc, Thơ Trên Cát Và Phơi Nắng Trên Bãi Biển

 

 

PHONG LAI SƠ TRÚC

 

Phong lai sơ trúc

phong khứ nhi trúc bất lưu thanh

nhạn quá hàn đàm

nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh

thị cố quân tử

sự lai (#) nhi tâm thỉ hiện

sự khứ nhi tâm tùy không

 (daitangkinhvietnam.org)

            (#) Có bản dùng chữ đáo

 

Gió đến bụi trúc

Gió qua rồi mà trúc không lưu lại âm thanh

Nhạn bay qua đầm nước lạnh

Nhạn qua rồi mà mặt nước đầm không lưu lại hình ảnh

Cho nên người quân tử

Việc đến thì tâm khởi

Việc qua thì tâm hoàn không

 

Một Nho gia đã viết Phong Lai Sơ Trúc để chỉ cho đám hậu bối phương cách “chính kỳ tâm”, một trong chuỗi mắt xích “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà nho sinh phải từng bước tu tập để thành người quân tử. Bốn câu đầu tượng thanh, tượng hình, đẹp như một bài thơ nên nhiều người lầm tưởng đó là thơ. Thật ra 4 câu đó đã được tác giả “nghĩ ra từ trước”, nay moi trong “kho kiến thức” ra sử dụng để viết bài “huấn thị” cho đám học trò. Rất tình cờ, ở đây Nho học đã gặp Phật học. Nhiều Phật tử trên đường học đạo đã cho đó là một bài thơ và thường chiêm nghiệm để tu tâm. Đúng ra Phong Lai Sơ Trúc có thể gọi là kệ (hay một cái tên gì khác) chứ nó không phải là một bài thơ. Tác giả không đối cảnh rồi cảm ứng sáng tác ra nó; đây chỉ là công việc riêng lẻ của lý trí; những thành phần khác của tâm như bản năng, tình cảm đều không có cơ hội, không được quyền tham dự vào.

 

Bây giờ chúng ta cùng đọc Thơ Trên Cát của thiền sư Viên Minh

 

   THƠ TRÊN CÁT

 

Viết bài thơ trên cát

Cơn sóng vỗ xóa đi

Vô tình đâu biết được

Mình viết bài thơ gì.

(Viên Minh, từ tác giả)

 

Cũng cái ý đấy, nhưng ở đây thiền sư của chúng ta đã thực sự đối diện với cảnh đời, cảnh bao la sóng nước của biển cả, để có hứng, có cảm xúc viết thành bài thơ. Những thành viên củaTâm từ Tam Tạng (bản tâm), Tề Thiên (lý trí), đến Trư Bát Giới (bản năng), Sa Tăng (tình cảm) đều có mặt. Nhưng do được “rèn luyện đến nơi đến chốn” nên tất cả đều lặng thinh. Thơ Trên Cát được viết ra để nói về bài thơ đã mất; mất thật sự, không lưu lại một dấu tích gì trong lòng tác giả; bài thơ mất mà tác giả của nó không một chút bận tâm, luyến tiếc. So sánh với “phong lai sơ trúc” và “nhạn quá hàn đàm” thì hình ảnh cơn sóng vỗ xóa mất bài thơ cũng đẹp và nên thơ không kém.  Đối cảnh tâm có cảm xúc nhưng không có tư ý, tư dục chính là trường hợp này. Có thể nói đây là bài thơ thiền của một người đạt đạo.

 

Cùng một ý nhưng Thơ Trên Cát của Viên Minh là thơ, còn Phong Lai Sơ Trúc chỉ là một lời khuyên, một thứ “huấn thị”. Khác biệt cũng chỉ ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc.

 

PHƠI NẮNG TRÊN BÃI BIỂN

Biển vắng nàng nằm trên cát

Chỗ không nên phơi, cũng phơi

Tôi vô tình đi qua đấy

Nhìn thấy nóng ran cả người

(PĐN)

Lòng ham muốn (dục vọng) đã nổi lên. Chúng ta đã có Thơ. (Thơ Thế Tục)

 

Tại Sao Có Mưa - Biệt Nhất Phương - Muốn Làm Mây Trắng

 

TẠI SAO CÓ MƯA?

Nước từ biển bốc hơi

Thành mây trắng trên trời

Nếu gặp luồng khí lạnh

Thì sẽ có mưa rơi

Đây có lẽ là một đoạn văn vần do thầy (cô) giáo (môn Khoa Học Tự Nhiên) nào đó đặt ra để học trò dễ nhớ. Chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.

 

BIỆT  NHẤT  PHƯƠNG

 

Đáo tận yên hà xứ

Hồi đầu biệt nhất phương

Mục tiền sơn thủy hạo

Nguyệt hiện thảo đầu sương

(Viên Minh, từ tác giả)

 

Đến tận vùng mây nước

Ngoảnh lại riêng một cõi

Trước mắt núi sông hùng vĩ

Trăng hiện trên hạt sương đọng trên đầu nhọn cỏ

 

Tác giả sảng khoái đến độ lạc thần trí trước vẻ đẹp của mây núi, sóng nước nhưng không có một chút tư ý, tư dục. Có thể nói cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập vào cái đại ngã của đất trời, của vũ trụ. Đây là bài thơ thiền

 

MUỐN LÀM MÂY TRẮNG

Ta muốn làm mây trắng

Bay về Huế mộng mơ

Chờ đến khi nắng hạn

Đổ xuống một trận mưa

(Không biết xuất xứ)

Cảm xúc đã dạt dào trên trang giấy. Đây là tâm tình của một người Huế rất nặng tình với Huế. Muốn Làm Mây Trắng đích thị là một bài thơ (Thơ Thế Tục)

 

Trở Lại Mấy Đoạn Thơ Của Anh Thái Hưng Nguyễn

 

Anh Thái Hưng Nguyễn trước sau đem vào cuộc tranh luận 4 đoạn thơ có vóc dáng của loại thơ Haiku của Nhật. Một trong những đặc tính quan trọng của loại thơ này là không mô tả cảm xúc mà chỉ ghi nhận sự kiện, sự việc đang xảy ra. Chúng ta thử xem lại từng đoạn:

 

 1/

Đầm xưa.

Cóc nhảy vô.

Nước té vang.

Với nhận xét của một người nghiên cứu thơ Việt, dựa vào hai Đinh Nghĩa Thơ của người Việt (Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Hưng Quốc) tôi cho rằng đây là một bài thơ (Thơ Thế Tục) viết bóng gió về những kỷ niệm của một khoảng thời gian nào đó trong quá khứ. (Nhận Diện Thơ).

 

2/

 Ao cũ.

Chú cóc nhảy vào.

Tiếng nước xao.

Có lẽ anh lấy ý tbài Haiku nổi danh nhất của văn học Nhật:

Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
 (Bashô)

Như đã bàn tới trong Nhận Diện Thơ, đây là một đoạn thơ hoài niệm về một thời nào đó trong quá khứ. Có cảm xúc của thất tình lục dục nên đã có thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục)..

 

3/

Đồi trọc.

Thoảng trong gió.

Tiếng cóc.

 

Ở đây không thấy sự nhộn nhạo của chữ Tình (thất tình lục dục) nên không thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục). Tác giả đã ngừng đúng lúc để có thể nhìn cảnh vật như thị, như thực, đúng như nó đang là, không bị biến đổi bởi tư ý, tư dục. Vì thế đây có thể xem là một Bài Thơ Thiền.

 

4/

Đầm hoang

Con Cóc nhảy vô

Nước té vang.

Đoạn này cũng tương tự như đoạn 3 ở trên – cũng là bài thơ thiền.

 

Kết Luận

Trong bài Nhận Diện Thơ tôi cho rằng hai đoạn 3 và 4 không phải là Thơ nhưng không nói rõ ràng là “Chúng không xứng đáng danh hiệu Thơ Thế Tục nhưng có thể xếp vào một loại thơ khác là Thơ Thiền.” Sợ bạn đọc hiểu lầm nên phải viết bài này để giải thích trước. Tôi đã gởi thư nhờ các trang web đăng bài Nhận Diện Thơ sửa chữa lại. Sau khi hoàn tất bài viết này tôi cũng sẽ vào FB của mình cùng các trang văn học của các bạn trẻ sửa chữa lại cho chính xác. Thành thật xin lỗi tất cả độc giả về những phiền toái, nếu có.

Phạm Đức Nhì


phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 

 

 

Thứ Bảy, 25 tháng 3, 2017

NHẬN DIỆN THƠ


                       NHẬN DIỆN THƠ

             (Trao đổi với Thái Hưng Nguyễn)

 Sau khi đọc bài “Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ? trên trang Thơ Ca Nghệ Thuật Đương Đại, anh Thái Hưng Nguyễn (người phụ trách trang web trên) có đưa ra 3 “đoạn thơ”

1/ Đầm xưa.

Cóc nhảy vô.

Nước té vang.

 
2/ Ao cũ.

Chú cóc nhảy vào.

Tiếng nước xao.

                                                                             
3/ Đồi trọc.

Thoảng trong gió.

Tiếng cóc.

kèm 2 câu hỏi có vẻ như đánh đố:

1/ Đoạn nào có thể gọi là thơ và đoạn nào không phải là thơ?

2/ Những đoạn được gọi là thơ (nếu có) thì hay hay dở? Hay ở chỗ nào và dở ở chỗ nào?

 
Thật ra nếu vững về lý thuyết thơ thì trả lời 2 câu hỏi này không khó, nhưng để có thể thuyết phục người đọc chấp nhận câu trả lời một cách vui vẻ, thoải mái thì một số kiến thức căn bản về thơ cần phải được chuẩn bị và xác lập trước. Thành thử câu trả lời sẽ ngắn nhưng phần chuẩn bị lại hơi dài dòng. Mong anh Thái Hưng Nguyễn và bạn đọc thông cảm.

 

Dựa Vào Định Nghĩa Thơ

 
Ngày tôi còn mài đũng quần ở trung học, thơ được hiểu là một loại hình nghệ thuật dùng chữ, có vần điệu để biểu lộ một cảm xúc hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought). Nhưng khoảng mấy thập niên sau này cái phần đuôi của định nghĩa thơ: hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought), trong rất nhiều sách và trang web thơ ca, đã lặng lẽ biến mất. Những “bài thơ” được mang danh hiệu Thơ chỉ nhờ vào ý tưởng cao đẹp cũng tự động rời bỏ Vườn Thơ để đi đến những khu vườn khác.

Tuy vậy, hiện nay vẫn còn một số ít người tiếp tục tin vào và thực hành tôn chỉ “văn dĩ tải đạo” và cho rằng nên “dùng Thơ Ca để giáo huấn (dạy) con em, để chúng trở thành người chính trực, ôn nhu, rộng lượng, kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo mạn.(1). Nếu độc giả đồng ý với cách nhìn ấy thì hãy ngừng ngay, không nên đọc tiếp bài viết này nữa, vì như thế sẽ tốn công, phí sức vô ích.

Theo tôi, mục đích chính của Văn là chuyển tải thông điệp. Cũng có khi có cảm xúc, nhưng nếu không có cũng không sao. Nhưng với Thơ thì cảm xúc là cốt yếu; nếu thiếu cảm xúc thì thơ sẽ không còn là thơ nữa mà thành thể loại khác.

Tôi đồng ý với Nguyễn Đình Thi khi ông viết “Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói -tức là chữ- để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường”… "thơ không nói bằng ý niệm thuần tuý, bởi nếu thế, thơ đã bị đánh đồng với đạo đức (luân lí), triết học... Con đường của thơ hướng tới việc "lay động những chiều sâu của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ.”  … (Mấy Ý Nghĩ Về Thơ)

Còn Nguyễn Hưng Quốc thì cho rằng “Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ) đi tìm một đồng cảm” (mấy chữ trong ngoặc đơn là của PĐN thêm vào để tránh hiểu lầm).  

Có hai đặc tính để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:

1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí.

hoặc là:

2/ Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.

 
Sau đây là một số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay sắp xếp lại một cách đặc biệt để độc giả dễ tiếp nhận.

 
Là Sản Phẩm Của Lý Trí

 
1/

 Hình Vuông

 
Muốn tìm chu vi hình vuông

Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi

Diện tích hình vuông khó gì

Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào

 
Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.

 
2/

Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông

 
Ôi! Khoảnh đất hình vuông

ở giữa là căn nhà nhỏ bé

vách đất, mái rạ

nơi anh đã gởi cả trái tim

vì trong căn nhà đó có em.

(PĐN chế để minh họa)

 
Ở đây tác giả đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.

3/

Công Cha Nghĩa Mẹ

 
Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

(Ca dao)

 
Một nhà nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.

 

4/

Thôi xa rồi mẹ ới

lệ nhòa mi mắt

mong con phương trời

có lần chợt tỉnh đêm vơi

nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân ly

mẹ ơi con mẹ tìm đi

bao giờ hết giặc con về mẹ vui.

(Nhà Tôi, Yên Thao)

 

Tác giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ.

 

5/

 Tháng Giêng Ăn Tết Ở Nhà

 Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.

(Văn Hóa Việt, e-cadao.com)

Một nhà nghiên cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng quan sát sắc bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù trong sinh hoạt văn hoá của người Việt Nam từng tháng một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được mượn làm phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả chỉ “đứng ngoài” chứ không cho tâm trạng, cảm xúc của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta cũng chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ

6/

Quan đòi thầy kiện

Bình bát nấu canh

Ăn hơi tanh tanh

Là rau dấp cá

Có mẹ không cha

Rau má mọc bờ

Thò tay sợ dơ

Đó là rau nhớt

Rau cay như ớt

Vốn thiệt rau răm

Sống suốt ngàn năm

Là rau vạn thọ

(Vè Nam Bộ)

Rõ ràng đây là một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên tiếp. Tác giả (khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên các loại rau một cách trào phúng. Tuyệt nhiên không có cảm xúc.

 
Như ta đã biết, lời dạy của Đức Phật được ghi chép thành Kinh. Đệ tử của ngài, các tăng ni - dựa vào sự hiểu biết của mình – giải thích cho Phật Tử dễ hiểu bằng những đoạn văn vần ngắn. Đó là Kệ. Kinh hay Kệ, dù ý nghĩa thâm sâu cũng không phải là thơ.

 7/

Kinh Pháp Cú

 

Không làm các việc ác

Tu tập các hạnh lành

Giữ tâm ý thanh tịnh

Là lời chư Phật dạy

 

8/

Thị Đệ Tử

 

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

(Sư Vạn Hạnh, thivien.net)

 

Dặn Học Trò

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông

(Ngô Tất Tố dịch)

Thiền sư Vạn Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để lý giải lẽ Vô Thường. Tất cả những câu chữ ông viết ra đều đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí. Ông truyền đạt cho mọi người một phần sự hiểu biết của ông về đạo Phật; đó là lẽ Vô Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với cảnh sắc, lý chưa biến thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ là Kệ chứ chưa phải là Thơ.

 
9/

Hãy Tin Chúa

Hãy tin nơi Thiên Chúa

Hồn xác dâng cho ngài

Hãy sống theo lời Chúa

Chết, sẽ về nước Trời

Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.

8/

Hãy Mua Thuốc Số 42

Ai khóc ngoài quan ải?

Ai chưa đánh đã chạy dài?

Thuốc này bôi một tý thôi

Là trèo lên ngựa vung roi cả ngày

Thuốc này, ôi thật là hay!

Thuốc này tên gọi là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)

 

Đây có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu” ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh, không phải là những lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.

 

Có Cảnh Nhưng Chưa Có Tình

1/

“Thơ Con Cóc”

Con cóc trong hang

Con cóc nhảy ra

Con cóc nhảy ra

Con cóc ngồi đó

Con cóc ngồi đó

Con cóc nhảy đi

(Đã giải thích)

 

2/

Đồi trọc

Thoảng trong gió

Tiếng cóc

 

Cũng như “Thơ Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác lập khung cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình, thứ Tình trong “thất tình lục dục” của con người (hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường gặp). Tuy nhiên, trường hợp này do tâm đã đối cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã bước vào khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui thấy mình đã buông xả, không còn bị vướng mắc, lôi kéo. Đây chính là loại Thơ Thiền.

 

Một Số “Bài Thơ” Bị Tước Mất Danh Hiệu Thơ.

 

1/

                 KIM LŨ Y

   Khuyến quân mạc tích Kim Lũ Y

   Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì

   Hoa khai kham chiết trực tu chiết

   Mạc đãi vô hoa không chiết chi.

                  Đỗ Thu Nương
                          *

                ÁO KIM TUYẾN

   Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng

   Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung

   Hoa nở bẻ được thì nên bẻ

   Đừng chờ hoa hết, bẻ cành không.

 

2

       LA CỐNG KHÚC

             Kỳ Tam

Mạc tác thương nhân phụ

Kim thoa đương bốc tiền

Triêu triêu giang khẩu vọng

Thác nhận kỷ nhân thuyền.

           Lưu Thái Xuân

             

       BÀI CA LA CỐNG

             (bài 3)

Chớ làm vợ những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.

 

Hai tác giả sành đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình - bằng hình thức thơ - khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai “bài thơ” trên toàn là những điều hay, lẽ phải nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc. Trước đây, vì quan niệm “văn dĩ tải đạo” ông cha ta đã long trọng gọi chúng là Thơ. Nay Thơ đã đi theo một hướng mới, đã có những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình, cảm xúc của con người nên, dựa vào cách nhìn nhận mới đó, chúng không còn xứng đáng với danh hiệu Thơ nữa.  

 

Trả Lời Thái Hưng Nguyễn

 

Như vậy, “đoạn thơ” thứ 3 do anh Thái Hưng Nguyễn gởi đến

1/

Đồi trọc

Thoảng trong gió

Tiếng cóc

 

đã được trả lời và xếp loại như ở trên. Rất dễ dàng và đơn giản. Nó, dù đã xác lập được khung cảnh của “bài thơ”, vẫn không phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục) vì chưa có câu Sinh Tình (thứ tình trong “thất tình lục dục”), nhưng có thể gọi là Thơ Thiền.

 

2/

Đầm xưa.

Cóc nhảy vô.

Nước té vang

Nêú không có chữ “xưa” thì đoạn này cũng không phải là thơ vì chưa có câu Sinh Tình. Đưa chữ “xưa” vào đoạn thơ tác giả đã làm thay đổi hẳn cục diện.

Cóc: nói chung chung, không có mạo từ nên có thể là số ít và cũng có thể là số nhiều.

Tứ thơ: nhìn cóc nhảy vô “cái đầm (ngày) xưa”, nước bắn (lên) vang những âm thanh quen thuộc, gợi lại biết bao nhiêu kỷ niệm.

Nhờ chữ “xưa” nên vừa bước vào khung cảnh của “đoạn thơ”, mặc dù chưa có những câu Sinh Tình, tình đã tự động phát sinh, cảm xúc “bắn tung tóe”.

Đoạn này đã đủ điều kiện để mang danh hiệu Thơ.

Chữ “vang” không hợp với tiếng nước bắn lên (kim loại thì hợp hơn); câu “Nước té vang” vừa vụng về, vừa ngô nghê, và dĩ nhiên, rất dở.

 

3/

Ao cũ.

Chú Cóc nhảy vào.

Tiếng nước xao..

Tứ thơ: nhìn Chú Cóc nhảy vào “cái ao cũ”, tiếng nước làm xao động biết bao tâm tình từ những kỷ niệm của những tháng năm xưa.

Đoạn này đã đủ điều kiện mang danh hiệu Thơ. Thêm nữa, nó còn hay hơn đoạn trên nhờ chữ “xao” vừa hợp, vừa thanh lại rất gợi.

 

Đoạn này có thể có một cách hiểu khác.

Chú Cóc nhảy vào: xác định cóc chỉ có một con.

Tứ thơ: Chú Cóc nhảy vào ao cũ, nghe tiếng nước xao nhớ lại biết bao kỷ niệm ngày xưa, lòng (Chú Cóc) xốn xang, rung động. (Trường hợp này có phép ẩn dụ - ý, tứ khác nhau)

Ý: nhìn Chú Cóc nhảy vào “ao cũ” làm nước xao động, tác giả chợt nhận ra tâm trạng của mình cũng giống Chú Cóc - bao kỷ niệm hiện về, tâm hồn bâng khuâng, xao xuyến.

Có phép ẩn dụ, đoạn thơ sang hẳn lên, và vì thế, hay hơn nhiều.

Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách này sẽ khó trả lời được câu hỏi “Làm sao biết, đối với Chú Cóc, cái ao mà Chú nhảy vào là ao cũ?”

 

Đoạn Thơ Mới

Khi bài viết này còn chưa xong, anh Thái Hưng Nguyễn, cũng vẫn câu hỏi cũ, đã đưa ra một “đoạn thơ” mới:

 

Đầm hoang

Con Cóc nhảy vô

Nước té vang.

 

Tương tự như trên, đoạn này có thể gọi là Thơ Thiền

 

Kết Luận

Theo tôi, đây là cuộc tranh luận bổ ích. Nhờ cuộc tranh luận về “Thơ Con Cóc” này tôi đã có cơ hội nhắc đến hai định nghĩa Thơ mà tôi cho là phù hợp với cách nhìn nhận Thơ Ca hiện nay. Dĩ nhiên lập luận của tôi trong bài viết chưa phải là kết luận chung cuộc. Sẵn sàng đón nhận ý kiến, phê bình khác của bạn đọc.

Phạm Đức Nhì

nhidphạm@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com

 

CHÚ THÍCH:

1/ Kim Kũ Y: Thơ Xưa Mà Vẫn Mới. Nguyễn Khôi, newvietart.com